Thứ Tư, 6 tháng 4, 2016

Tản Mạn Về Đất Nước Và Con Người Tỉnh Vĩnh Long

(Có dùng một phần tư liệu trong Non Sông Gấm Vóc của GS Nguyễn Thanh Liêm viết về Vĩnh Long)

      Khảo sát về lịch sử tỉnh Vĩnh Long qua nhiều giai đoạn, kể từ 1658 trở về trước, Vĩnh Long thuộc địa phận nước Chân Lạp; từ 1658 -1730 Vĩnh Long được đặt dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn; từ 1730 -1759 là thuộc địa của chúa Nguyễn; từ 1760 trở về sau, vua Chân Lạp nhượng đứt cho Việt Nam; từ 1867 bị đặt dưới chế độ thuộc địa của Pháp. Năm 1867
      Riêng về chuyện về địa giới hành chánh của Vĩnh Long cũng lắm "thăng trầm" ..Tỉnh Vĩnh Long được thành lập vào năm 1832 thời chúa Nguyễn. Sau khi Pháp cưỡng chiếm 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, bỏ khung hành chính nam kỳ lục tỉnh. Vĩnh Long bị chia ra làm 3 tỉnh: Bến Tre, Trà Vinh và Vĩnh Long.
      Tỉnh VL xưa nguyên là đất Tầm Đôn - Xoài Rạp. Khi Nguyễn Hữu Cảnh vào nam kinh lý thì vùng này còn để cho dân khai phá, lập trang trại một cách tự do.

      Chuyện về địa giới hành chánh của VL: Năm 1732 chúa Nguyễn đặt vùng này làm châu Định Viễn. Năm 1803, đổi tên thành dinh Hoằng Trấn, năm 1804 cải tên thành dinh Vĩnh Trấn, đem 2 đạo Long Xuyên và Kiên Giang thuộc Hà Tiên về đây, năm 1808 cải tên thành trấn Vĩnh Thanh, thăng châu Định Viễn làm phủ Định Viễn. Năm 1810 trả lại hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang về Hà Tiên, đến 1832 phân hạt gọi là tỉnh Vĩnh Long, nhập thêm phủ Lạc Hoá (gồm 2 huyện Tuân Ngãi và Trà Vinh), tăng thêm huyện Vĩnh Trị đồng thời cho tách 2 huyện Vĩnh Định, Vĩnh An và đạo Châu Đốc về lập tỉnh Kiên Giang. Năm 1867, Pháp cưỡng chiếm 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, bỏ khung hành chính nam kỳ lục tỉnh. Vĩnh Long bị chia ra làm 3 tỉnh: Bến Tre, Trà Vinh và Vĩnh Long. Sau 1975, Vĩnh Long và Vĩnh Bình nhập lại thành tỉnh Cửu Long, đến năm 1991 lại chia ra thành Vĩnh Long và Trà Vinh như cũ.
      Việc thành Vĩnh Long 2 lần thất thủ 1867, dẫn đến việc tự sát của Phan Thanh Giãn. Song đất VL xưa và nay luôn là miền đất trù phú, ngoài việc là nơi miệt vườn với cây trái sum xuê còn là một vườn ươm nghệ thuật với nhiều nghệ sĩ đờn ca tài tử trứ danh một thời.


Không Phận  Vĩnh Long
      "Từ thời Pháp thuộc sang đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa, Bến Tre, Trà Vinh, Sa Đéc, Cần Thơ lần lượt tách ra làm thành tỉnh mới, Vĩnh Long chỉ còn lại phần đất nằm giữa Tiền Giang và Hậu Giang, tiếp giáp với các tỉnh Tiền Giang (Định Tường) ở phía Bắc, Đồng Tháp (Kiến Tường) ở phía Tây, Cần Thơ (Phong Dinh) ở phía Nam, và Trà Vinh (Vĩnh Bình) ở phía Đông, với diện tích 1, 478 cây số vuông và khoảng 1, 023,400 dân số (theo thống kê năm 2002).

      Nằm trên đồng bằng châu thổ Cửu Long tỉnh Vĩnh Long không có núi, địa thế là đồng bằng do phù sa bù đắp. Hai con sông quan trọng là Tiền Giang và Hậu Giang.
      Sông Tiền Giang đến An Thành chia làm hai nhánh, một nhánh chảy vào Vĩnh Long gọi là Cổ Chiên (ở đây có một số cù lao lớn như cù lao Dài, cù lao Tân Phong, cù lao An Thành), một nhánh chảy về phía Đông Nam vào hai tỉnh Định Tường và Trúc Giang (Kiến Hòa )
      Sông Hậu Giang chảy hướng Tây Nam, chia ranh giới với tỉnh Phong Dinh (có cù lao Tân Ngãi, tức cù lao Mây, khá lớn). Ngoài ra còn có kinh rạch ngang dọc khắp tỉnh: đặc biệt có kinh đào Mang Thít chảy dài từ quận Minh Đức đến quận Trà Ôn, nối liền hai sông Tiền Giang và Hậu Giang, rút ngắn đường vận chuyển các loại nông sản từ các tỉnh miền Tây về Sài Gòn.

      Khí hâu ở đây nóng ẩm, với hai mùa mưa, nắng rất rõ rệt. Mực nước lên cao từ tháng Năm đến tháng Bảy âm lịch (ca dao có câu "tháng Bảy nước chảy khỏi bờ" là vậy), và bắt đầu xuống từ tháng Tám cho đến tháng Mười âm lịch mới bình lại. Vì kinh rạch nhiều, nhất là nhờ hai con sông Tiền, sông Hậu nên rút ra biển rất nhanh, không bị lụt như ở Mỹ Tho và Kiến Phong. Là tỉnh ở giữa đồng bằng sông Cửu Long, Vĩnh Long có đất đai màu mỡ do được sông Tiền và sông Hậu bồi đắp phù sa hàng năm. Trồng trọt là một thế mạnh của tỉnh. Bên cạnh cây lúa (90% diện tích đất trồng lúa), hàng năm người dân Vĩnh Long còn thu hoạch hàng trăm ngàn tấn trái cây như cam, nhãn, quít, bưởi, dừa... và chăn nuôi gia súc gia cầm.



      Vĩnh Long nằm giữa hai bến đò nổi tiếng hồi xưa quen gọi là Bắc Mỹ Thuận và Bắc Cần Thơ. Đây là vùng đất phù sa màu mỡ rất thích hợp với lúa nước và các loại cây ăn trái, nhất là loại cây trái vùng nhiệt đới nổi tiếng như sầu riêng, măng cụt, chơm chơm, bòn bon, ổi, xoài, mận,dâu, sa bô chê, vú sữa, v v . . .Cái Mơn là nơi nổi tiếng về ươm cây mà các tỉnh lân cận thường đến đây mua về trồng.
      Đây cũng là đất của nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng của Miền Nam từ Nguyễn Cư Trinh, Tống Phước Hiệp, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản, Petrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Thông đến các chính trị gia gần đây như Trần Văn Hương, Nguyễn Văn Lộc, v v . . .Nhiều di tích lịch sử như thành xưa (Thành Long Hồ), đồn xưa Đồn Cổ Chiên, lăng mộ (Lăng Hà Tiên, Mộ ba vị công thần triều Nguyễn), những nơi có liên hệ đến Gia Long, những chùa đền, miếu cổ như Chùa Di Đà, Miếu Quốc Công, Văn Thánh Miếu, làm cho Vĩnh Long có nhiều nét văn hóa lịch sử đáng kể. Các hoạt động nghệ thuật, tôn giáo, giáo dục có nhiều nét độc đáo nói lên địa vị của một tỉnh thủ đô một thời nào.

Miếu Tống Quốc Công thời Pháp thuộc ( nay thuộc vị trí nhà Văn Hoá TX Vĩnh Long )
Cụ Tống Phước Hiệp ( sinh .... mất:Bính Thân 1776)

      Tống Phước Hiệp, quê ở huyện Tống Sơn, Thanh Hóa. Ông là cháu Quận công Tống Phúc Trị. Đời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765), ông làm Lưu thủ Long Hồ dinh, được tiếng là giỏi việc trị an và biết thương dân.
      Vị quan cai quản đầu tiên dinh Long Hồ là Quốc công Tống Phước Hiệp.
      Ông vừa là vị tướng cầm quân xông pha trận mạc, vừa hoạch định kế sách an dân và khuyến khích giao thương buôn bán. Xưa kia, trên phần đất cạnh dòng sông Long Hồ (đoạn từ Ủy ban Nhân dân Thị xã Vĩnh Long đến dốc cầu Thiềng Đức ngày nay) có thời là chợ Trường Xuân, dân họp chợ đông đúc, mua bán khá nhộn nhịp. Trải qua chặng đường một trăm năm, từ Long Hồ dinh (1732) đến Hoằng Trấn dinh, Vĩnh Trấn rồi đến trấn Vĩnh Thanh (1832), người dân vùng đất này đã cộng lực mưu sinh, chinh phục thiên nhiên, biến miền đất hoang vu, sình lầy, rừng rậm… thành nơi sản xuất lúa gạo và hoa trái dồi dào nhất nước.
      Một trong những công thần triều Nguyễn từng làm Lưu Thủ tại Long Hồ dinh thuở mới thành lập là cụ ông Tống Phước Hiệp. Ông đã từng đem quân cứu viện giúp Mạc Thiên Tứ đánh đuổi quân Xiêm trong nhiều trận chiến, gây tổn thất nặng nề cho quân Xiêm, đem lại bình yên cho nhân dân. Ông bị bệnh, và từ trần năm 1776 được triều đình truy tặng Hữu Phủ Quốc Công, sắc chỉ lập miếu thờ tại dinh Long Hồ.
      Ngài đã qui thần nhưng oai linh hiển hách, dân chúng đất Vĩnh Long rất tin tưởng nơi Ngài. Sống làm tướng, thác làm thần , từ trước tới nay người dân luôn thờ phụng Ngài, nơi đền thờ Ngài lúc nào cũng khói hương nghi ngút.. Ngày vía Tổng Quốc Công được tổ chức long trọng hằng năm vào mùng 2 và mùng 3 tháng 6 âm lịch, có rước hát bộ xây chầu. Tên Ngài đã được dùng làm tên trường Trung Học tỉnh lỵ Vĩnh Long, một trường trung học to lớn, rất nổi tiếng ở Miền Tây cũng như trường Phan Thanh Giản ở Cần Thơ hay trường Thoại Ngọc Hầu ở Long Xuyên.

Cụ Phan Thanh Giản. (1796-1867)

      Một danh nhân đáng thương, đáng kính nhất của đất Vĩnh Long là cụ Phan Thanh Giản. Tên chữ là Tinh Bá và Đạm, hiệu là Lương Khê, biệt hiệu là Mai Xuyên, cụ là vị Tiến Sĩ đầu tiên của Miền Nam. Cụ Phan sinh năm 1796. Thân sinh là người giỏi chữ nho, đến Vĩnh Long làm thư lại cho Nam triều, thường tải lương thực về Huế. Mẹ mất sớm, cha bị vu cáo phải ở tù, Phan Thanh Giản phải sống bần hàn, nhưng rất chăm chỉ học tập, được hàng xóm sẵn sàng giúp đỡ. Năm 1825 cụ Phan Thanh Giản đậu kỳ thi Hương ở Gia Định và năm sau , 1826, đi thi Hội đậu luôn Tiến Sĩ ở Huế. Đậu xong cụ được bổ nhiệm Hàn Lâm viện biên tu, làm việc tại Huế. Sau đó đổi ra Quảng Bình, rồi về Quảng Nam dẹp loạn. Lại về Kinh làm ở Bộ Hình, rồi làm Phó Sứ sang Trung Hoa. Cụ được triều đình ngợi khen về tài ngoại giao, được cử giữ chức Kinh Lược Sứ ở TrấnTây (Cao Miên) rồi Bố Chánh Quảng Nam. Được vua tin cậy bổ Đô Sát Viện Ngự Sử, sung chức Cơ Mật Viện Đại Thần.

Hình chụp Cụ Phan Thanh Giản (1796 - 1867)

      Hình chụp tại Paris năm 1863, nhân dịp cụ cầm đầu sứ bộ sang Pháp thương thuyết để xin chuột lại 3 tỉnh Miền Đông Nam Kỳ
      Năm 1861 sau khi Gia Định và ba tỉnh Miền Đông mất vào tay Pháp, triều đình sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Nam thương thuyết.
      Năm 1863 cụ Phan lại được triều đình Huế cử hướng dẫn phái đoàn hơn 50 người, với Petrus Ký làm thông ngôn, lên đường sang Pháp thương thuyết để chuộc lại ba tỉnh Miền Đông. Sau hơn hai tháng lênh đênh trên mặt bể, phái đoàn đã đến Pháp và được vua Napoléon III của Pháp đón tiếp trọng thể. Đoàn Việt Nam cũng có cơ hội được chứng kiến Trở về Việt Nam cụ Phan được cử vào trấn nhậm Miền Tây để giữ ba tỉnh còn lại.
      Nhưng không bao lâu các tỉnh này cũng bị người Pháp chiếm nốt trước sự bất lực của triều đình Việt Nam, và nhất là trướccái đau vô cùng của Kinh Lược Phan Thanh Giản. Không giữ thành cụ Phan uống thuốc độc tự tử. Cụ mất ngày mùng 5 tháng 7, năm 1867. Linh cữu được đưa về làng Bảo Thạnh, Bến Tre. Các quan Nam và Pháp tới thăm ai cũng ngậm ngùi mến tiếc. Tên tuổi của cụ còn sống mãi với non sông nhất là trong lòng người dân Nam Việt .

      Tên cụ được dùng làm tên trường Trung Học lớn ở Tây Đô: trường Trung Học Phan Thanh Giản. Hiện nay hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Phan Thanh Giản-Đoàn Thị Điểm đã được thành lập ở các nơi trên khắp thế giới, qui tụ nhiều cựu học sinh, nhân tài của đất nước...

Hình vẻ Cụ Phan Thanh Giản (1796 - 1867)

Pétrus Trương Vĩnh Ký (sinh : 06 tháng 12 năm 1837 – tịch :01 tháng 9 năm 1898)

      Một nhà bác học lừng danh của Việt Nam hồi hạ bán thế kỷ XIX cũng là người con của đất Vĩnh Long. Đó là Pétrus Trương Vĩnh Ký mà tên người đã được dùng làm tên cho trường Trung Học lớn vào bậc nhất và cũng nổi tiếng vào bậc nhất ở Miền Nam: trường Petrus Trương Vĩnh Ký. Nhà bác học Petrus Ký sinh năm 1837 tại Cái Mơn, làng Vĩnh Thạnh, tổng Minh Lệ, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (bây giờ thuộc tỉnh Bến Tre).


      Khi mới sinh có tên là Trương Chánh Ký, tự Sĩ Tải, theo đạo Công giáo nên có tên thánh: Jean - Baptiste Pétrus, nên còn gọi tắt là Pétrus Ký. Ông là một nhà giáo, nhà báo, nhà văn và là nhà bác học Việt Nam, thông thạo 26 ngôn ngữ, được ghi trong Bách khoa Tự điển Larousse và là một trong 18 văn hào thế giới của thế kỷ 19. Ông để lại hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật.

      Nhà bác hoc Pérus Ký để lại cho đời một công trình văn hóa lớn lao bằng chữ Quốc Ngữ. Petrus Ký có cái vốn kiến thức thật sâu xa rộng rãi, và rất hiện đại, hơn tấtcả những nhà nho cùng thời với ông, nhất là những kiến thức khoa học cùng những phương pháp nghiên cứu, phân tích, suy luận khoa học của Tây phương. Nói đến Petrus Ký là phải nói đến vai trò “khai đường mở lối” của ông trên các địa hạt như (1) dùng chữ Quốc Ngữ thay thế chữ Nôm và chữ Hán trong việc biên khảo, trước tác, (2) viết câu văn xuôi thay lối văn biền ngẫu của các nhà nho, (3) xây dựng nền học thuật mới tổng hợp văn hóa Á Đông và văn minh Tây phương thay thế nền học thuật cũ của nho gia, và(4) làm báo theo đúng ý nghĩa một tờ báo bây giờ.
      Trương Vĩnh Ký thiết tha với nền văn học Quốc ngữ và được coi là người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam. Ông sáng lập, là tổng biên tập những tờ báo quốc ngữ đầu tiên (Gia Định báo), cũng là cây bút chủ chốt của rất nhiều báo khác.
      Ông để lại hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật.

Tiểu sử:
      Trương Vĩnh Ký, người tại ấp Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoàng An, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre). Ông là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu. Năm ông 3 tuổi [3], thân phụ ông được triều đình cử đi sứ sang Cao Miên rồi mất ở bên ấy.

Đi học:
      Nhờ mẹ tần tảo, lên 5 tuổi Trương Vĩnh Ký được đi học chữ Hán, do thầy đồ dạy tại Cái Mơn. Đến năm lên 9 tuổi, ông được linh mục Tám đem về nuôi, vì nhớ ơn lúc nhà Nguyễn cấm đạo Công giáo gắt gao; ông Thi, tức cha của Pétrus Ký, đã hết lòng che giấu ông.
      Ông Tám mất, có hai nhà truyền giáo người Pháp, thường gọi là Cố Hòa, Cố Long, biết Pétrus Ký vừa có trí thông minh vừa chăm học, nên đem về trường dòng ở Cái Nhum dạy chữ Latinh. Năm 1848, Cố Long đưa Pétrus Ký sang học tại Chủng viện Pinhalu ở Phnom Penh, Cao Miên.
      Năm 1851, trường này chọn 3 học sinh xuất sắc, trong số đó có Pétrus Ký, để cấp học bổng đi du học tại Chủng viện Giáo Hoàng ở Pinang thuộc (Malaysia). Đây là một trường chuyên đào tạo các tu sĩ cho vùng Viễn Đông...
      Năm 21 tuổi (1858), Trương Vĩnh Ký đang học đến năm thứ 6, và chỉ còn một năm nữa là tốt nghiệp để chịu chức linh mục, thì vào lúc giữa năm, ông phải vội vàng về nước vì được tin người mẹ hiền qua đời.
      Pétrus Ký trở về quê hương Cái Mơn giữa lúc Pháp đem quân vào chiếm Việt Nam, bắt đầu từ Đà Nẵng (ngày 1 tháng 9 năm 1858), rồi Sài Gòn (ngày 17 tháng 2 năm 1859), đến Gia Định, tiếp theo là việc mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Vì thế, việc cấm đạo công giáo cũng diễn ra gay gắt hơn. Lúc ấy, Pétrus Ký phân vân rồi quyết định không trở lại chủng viện nữa.

Cộng tác với Pháp:
      Để tránh bị bắt bớ, Trương Vĩnh Ký chạy lên Sài Gòn vào tá túc nhà vị giám mục người Pháp Lefèbre, và được ông này giới thiệu làm thông ngôn cho Jauréguiberry vào ngày 20 tháng 12 năm 1860.
      Năm 1861 Pétrus Ký thành hôn với bà Vương Thị Thọ (con gái ông Vương Ngươn, hương chủ làng Nhơn Giang (Chợ Quán) do linh mục Đoan họ đạo Nhơn Giang mối mai và dời về cư ngụ ở Chợ Quán, Sài Gòn.
      Ngày 8 tháng 5 năm 1862, Pháp thành lập trường Thông ngôn (Collège des Interprètes), ông được nhận vào dạy.
      Năm 1863, triều đình Huế cử một phái đoàn do Phan Thanh Giản cầm đầu sang Pháp xin chuộc ba tỉnh miền Đông, Phan Thanh Giản xin Trương Vĩnh Ký đi theo làm thông ngôn.
      Sang Pháp, Pétrus Ký cùng phái đoàn nhà Nguyễn được triều kiến Napoléon III, gặp nhiều nhân vật tên tuổi thuộc nhiều lãnh vực khác nhau. Ngoài ra, ông còn được sang thăm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý và được yết kiến Giáo hoàng tại La Mã.

      Về nước, năm 1865, Trương Vĩnh Ký viết cho tờ Gia Định báo (tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên) do ông Ernest Potteaux làm quản nhiệm.
      Năm 1866, ông thay thế linh mục Croc làm hiệu trưởng Trường Thông ngôn. Ngày 15 tháng 9 năm 1869, ông được thủy sư đô đốc Pháp là Ohier bổ nhiệm làm chủ bút tờ Gia Định báo và tờ An Nam chính trị và xã hội.
      Ngày 1 tháng 1 năm 1871, Trường Sư phạm (École normale) được thành lập, Pétrus Ký được cử làm hiệu trưởng.
      Ngày 1 tháng 4 năm 1871, Pétrus Ký được Pháp phong hạng nhất huyện (hàm), được cử làm thư ký Hội đồng châu thành Chợ Lớn.
      Năm 1873, Pétrus Ký được giao nhiệm vụ điều hành trường Tham biện Hậu Bổ (Collège des administrateurs stagiaires), dạy Việt và Hán văn và cũng bắt đầu viết sách.
      Năm 1876, thống đốc Nam Kỳ Duperré cử ông ra Bắc Kỳ tìm hiểu tình hình miền Bắc. Năm 1877, ông là hội viên duy nhất và đầu tiên người Nam, được cử làm ủy viên hội đồng cai trị Sài Gòn.
      Năm 1883, ông được Hàn Lâm Viện Pháp phong hàm Viện sĩ (Officier d'Académie).
      Năm 1886, Paul Bert - nghị sĩ, hội viên Hàn lâm, bác học gia sinh vật học - được cử sang Đông Dương làm khâm sứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vốn là bạn từ trước, nên Paul Bert mời Trương Vĩnh Ký ra Huế giúp việc.
      Đến Huế, Pétrus Ký được vua Đồng Khánh cho lãnh chức trong Cơ mật viện Tham tá, sung Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ.
      Ngày 11 tháng 11 năm đó, Paul Bert bất ngờ bị bệnh chết, Trương Vĩnh Ký bị nhóm thực dân không cùng cánh bỏ rơi, bạc đãi; và bản thân Pétrus Ký sau đó cũng bị triều đình Huế nghi kỵ và trù dập nên ông lấy cớ đau phổi xin từ chức về lại Sài Gòn dạy học tại trường Hậu Bổ, trường Thông ngôn và viết sách.


Chùa cổ Tiên Châu gần bến đò cù lao Anh Bình - Long Hồ

Cuối đời:

     Mặc dù đã trở về đời sống của một viên chức, nhưng Trương Vĩnh Ký vẫn bị người khác phe tìm cách hạ bậc lương và làm khó dễ việc vào ngạch giáo sư sinh ngữ Đông Phương của ông. Rồi năm 1888, trường Thông ngôn đóng cửa, Pétrus Ký gần như thất nghiệp.
      Và khi trước, lúc còn được ưu ái, những sách của Trương Vĩnh Ký đều được nhà cầm quyền Pháp bỏ tiền ra in, để phân phối cho học sinh. Nhưng từ khi bị hất hủi, lui về ẩn dật ở Chợ Quán, ông phải bỏ tiền riêng ra in ấn và tự phát hành. Sách ế ẩm khiến Pétrus Ký phải mắc nhiều nợ.
      Năm 1887, sau khi đi công tác ở Bangkok để giải quyết vấn đề giữa Thái Lan và Đông Dương, ông nghỉ hưu. Năm 1888, ông xuất bản tạp chí tư nhân Thông Loại Khóa Trình (Miscellanées) được 18 số (1888 - 1889).
      Sống trong hoàn cảnh buồn bã, túng quẩn, bệnh hoạn luôn, Pétrus Ký qua đời vào ngày 1 tháng 9 năm 1898.
      Mộ phần và nhà ở khi xưa của ông (nay là nơi thờ phụng ông), hiện nằm nơi góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng thuộc Quận 5, Sài Gòn.

Chức vụ, huân huy chương:

      Không những Trương Vĩnh Ký là một nhà văn tiền phong của nền văn học chữ quốc ngữ mà ông còn là một học giả rất nổi tiếng. Trong quá trình hoạt động, ông đã được nhận các chức việc và huân huy chương:
      Nhận huy chương Dũng sĩ cứu thế của Tòa thánh La Mã ngày 1 tháng 10 năm 1863.
      Năm 1871, được cử làm hội viên Hội Nhân Văn và Khoa học vùng Tây Nam nước Pháp, Hội nhân chủng học, Hội Giáo dục Á châu.
      Năm 1874, được phong giáo sư ngôn ngữ Á Đông, vì Pétrus Ký đã thông hiểu 27 sinh ngữ trên thế giới.
      Trong cuộc bầu chọn “ Toàn Cầu Bác Học Danh Gia” vào năm 1874, Pétrus Ký đã được bình chọn đứng hàng thứ 17 trong 18 “ Thế giới Thập Bát Văn Hào”.
      Nhận huy chương Isabelle la Catholique của Tây Ban Nha ngày 27 tháng 6 năm 1886.
      Trở thành hội viên Hội chuyên khảo về Văn hóa Á Châu ngày 15 tháng 2 năm 1876.
      Trở thành hội viên Hội chuyên học địa dư ở Paris ngày 7 tháng 7 năm 1878.
      Nhận huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhị đẳng của Pháp ngày 17 tháng 5 năm 1883.
      Nhận Tứ đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long Khánh của Nam triều ngày 17 tháng 5 năm 1886.
      Nhận Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng của Pháp ngày 4 tháng 8 năm 1886.
      Nhận Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Pháp ngày 3 tháng 6 năm 1887
      Nhận Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Hoàng gia Cam Bốt.
      Vua Đồng Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm viện Thị giảng học sĩ.
      Vua Khải Định ban hàm Lễ Bộ Tham Tri.
      Vua Bảo Đại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư.

      Trước đây, tên của ông được Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng hòa đặt cho một ngôi trường trung học lớn nhất miền Nam. Sau năm 1975, trường này được đổi tên là trường trung học Lê Hồng Phong ở Sài Gòn.
      Hiện nay tại Sài Gòn cũng có 1 trường mang tên Trương Vĩnh Ký là Trường THPT Tư thục Trương Vĩnh Ký.

Một số tác phẩm
Ông có rất nhiều tác phẩm (118 tác phẩm hoặc 121 tác phẩm), lược kê một số như:

* Truyện đời xưa
* Abrégé de grammaire annamite (Tóm lược ngữ pháp An Nam)
* Kim Vân Kiều (bản phiên âm ra chữ quốc ngữ đầu tiên)
* Petit cours de géographie de la Basse-Cochinchine
* Cours de langue annamite (Bài giảng ngôn ngữ An Nam)
* Voyage au Tonkin en 1876 (Đông Kinh du ký)
* Guide de la conversation annamite (Hướng dẫn đàm thoại An Nam)
* Phép lịch sự An Nam (Les convenances et les civilités annamites)
* Lục súc tranh công
* Cours de la langue mandarine ou des caractères chinois (Bài giảng tiếng quan thoại hay chữ Trung Quốc)
* Cours d'histoire annamite (Bài giảng lịch sử An Nam)
* Dư đồ thuyết lược (Précis de géographie)
* Đại Nam tam thập nhất tỉnh thành đồ
* Cours de littérature annamite, 1891 (Bài giảng văn chương An nam)
* Cours de géographie générale de l'Indochine (Bài giảng địa lý tổng quát Đông Dương)
* Đại Nam tam thập nhứt tỉnh địa đồ
* Grand Dictionnaire Annamite-Français (Đại tự điển An Nam-Pháp) v.v...

      Hiện còn nhiều trước tác của Trương Vĩnh Ký đã bị thất lạc, không còn đầy đủ hoặc nằm ở thư viện nước ngoài.

Nỗi lòng:
      Hay tin Pétrus Ký, một con người tài giỏi, sẽ ra làm việc với Pháp, một số quan lại nhà Nguyễn đâm ra nghi kỵ ông. Nhưng sau nhiều toan tính, ông nghĩ rằng phải làm việc để giúp đỡ đồng bào, nhất là lúc ấy, Pháp và Nam triều chưa hiểu nhau, chưa thành thật với nhau. Pétrus Ký đã mượn câu châm ngôn Latinh Ở với họ mà không theo họ (Sic vos non vobis), để biện minh cho việc nhận lời làm thông ngôn cho Jauréguiberry.[5]

      Ngày 8 tháng 11 năm 1870, ông có lời di huấn: Người đời sanh ký tử quy, đàng đi nước bước vắn vỏi lắm. Nhưng ai cũng có phận nấy, hể nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng mình cho xong đã, mới chun vô phòng được. Sự sống ở đời tạm nầy, đỏ như hoa nở một hồi sương sa; vạn sự đều chóng qua hết, tan đi như mây như khói. Nên phải liệu sức, tùy phận mà làm vai tuồng mình cho xong....
      Bài thơ ông sáng tác lúc gần lâm chung:
Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai,

Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.
Học thức gửi tên con mọt sách,
Công danh rốt cuộc cái quan tài.
Dạo hòn, lũ kiến men chân bước,
Bò xối, con sùng chắt lưỡi hoài!
Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.


      Và câu ghi nơi nhà mồ bằng tiếng Latinh: Miseremini Mei Satem Vos Amici Mei (Xin hãy thương tôi, ít ra những bạn hữu của tôi).
      Ở cuối thế kỷ 19, Jean Bouchot gọi Trương Vĩnh Ký là "một nhà bác học duy nhất ở Đông Dương và cho đến ở nước Trung Hoa hiện đại nữa."
      Học giả người Pháp này cũng đã viết:
      Ta phải xem đời của cụ Trương Vĩnh Ký là một bài học và một gương tốt cho ta. Một bài học vì, vì ta thấy người dân hoàn toàn Nam Kỳ ấy sánh kịp với các nhà thông thái xứng đáng nhất của Âu châu trong đủ ngành khoa học...[7]

Phần mộ của cụ Trương Vĩnh Ký

      Theo tư liệu gia đình, khu mộ phần này được xây dựng trước khi Trương Vĩnh Ký mất (năm 1889) tại Chợ Quán, Sài Gòn, nay là nhà số 520, Trần Hưng Đạo, quận 5, Sài Gòn. Mộ được xây dựng ngay tại sinh phần của dòng họ, nơi có hơn 50 ngôi mộ
......................
      Nói chung và theo Địa phương chí tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long xưa vốn là một dinh, một trấn lớn, bao trùm một góc miền Tây. Biết bao nhân vật ưu tú đã làm rạng danh đất Vĩnh. Ngày nay, nhiều di tích vẫn còn lưu lại trên đất Sa Đéc (Đồng Tháp), Bến Tre, là những vùng thuộc Long Hồ dinh ngày trước. Chẳng hạn như: Nguyễn Cư Trinh và Trương Phúc Du – hai nhân tài đã dày công khai phá Long Hồ dinh; quốc công Tống Phước Hiệp – quan lưu phủ Long Hồ dinh đầy đủ ân oai được dân chúng xưng phục; Lâm thao quận công Châu Văn Tiếp; Kinh môn quận công Nguyễn Văn Nhơn; Nguyễn Khoa Thuyên – cai bộ Long Hồ dinh, từng sát cánh với Tống Phước Hiệp xông pha chiến trận, Nam Kỳ kinh lược đại thần Phan Thanh Giản; Trương Vĩnh Ký – nhà bác học, nhân tài của nước Việt Nam; Đốc binh Lê Cẩn và Nguyễn Giao – hai vị hào kiệt chống thực dân Pháp; Lê Long An - vị tiền hiền có công khai mở ba thôn: Mỹ Thạnh, Mỹ Hưng và Mỹ Hội; Tri huyện Tống Hữu Trung - một viên quan gương mẫu được nhiều người cảm đức; Bà Trần Thị Thọ - nhà từ thiện nổi tiếng khắp ba kỳ, được vua Khải Định tặng Kim Bảng "Háo Nghĩa Khả Gia",.v.v…

Những di tích lịch sử - văn hoá

(Đình Long Mỹ)
Đình:
      Khi nói đến một làng xưa Việt Nam thì tâm điểm trọng yếu đầu tiên mà ai cũng nghĩ đến là đình làng. Ngôi đình là nét đặc trưng hay có thể gọi là bản sắc của làng xã truyền thống Việt Nam. Đình là nơi tôn thờ Thành hoàng, vị thần bảo hộ cho làng, là trái tim điều khiển chi phối những hoạt động đời sống cộng đồng của đơn vị hành chính cơ sở tạo nên đất nước. Ngôi đình không chỉ là cơ sở tín ngưỡng quyền lực siêu nhiên mà còn là nơi hội họp bàn bạc tất cả những vấn đề to nhỏ liên quan đến làng. Đời sống cộng đồng hưng thịnh hay suy bại, cư dân có an khang phú quý hay không, phong tục thuần hậu tốt đẹp hay không, tất cả đều liên quan đến tâm điểm thiêng liêng – ngôi đình. Đó là nơi biểu hiện chỉnh thể kinh tế, văn hoá, xã hội của một địa phương.

      Các triều đại hưng rồi vong, đất nước có thể thăng trầm nhưng đình vẫn sừng sững đứng đó và làng không thể mất đi, làng lại kết tụ thành đất nước. Qua hai cuộc chiến tranh , có biết bao đình, chùa của làng quê Việt Nam đã bị huỷ hoại. Sau 1975, do thiếu ý thức bảo vệ, chúng ta đã tự làm mất đi không ít ngôi đình. Ngoài ra, sự tác động hàng trăm năm của văn hoá phương Tây, tinh thần thiêng liêng của ngôi đình cũng không tránh khỏi mờ khuất, dần dần bị mai một và biến dạng. May thay, có một ngôi đình cổ ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn giữ được khá toàn vẹn diện mạo ban sơ – đình Tân Giai (một ngôi đình cổ kính từ thời Gia Long). Bên cạnh đình Khao cổ kính, Vĩnh Long còn có nhiều ngôi đình mang nhiều sắc thái độc đáo và lạ kỳ. Đình Tân Giai là ngôi đình lớn nhất trong tỉnh Vĩnh Long.
      Được biết, vào đời Gia Long, nhận thấy dân chúng địa phương rất nặng lòng tín ngưỡng, chính quyền tán thành công cuộc xây dựng một ngôi đình thần. Đình toạ lạc trên vuông đất công điền, nằm sát mé sông Cổ Chiên, tại Vàm Cái Cá, mặt tiền hướng về phía bờ sông. Dân chúng đều hoan hỉ, tới nơi sùng phụng, tưởng niệm đất nước, tiền nhân, khói hương chiêm bái không ngớt. Đặc biệt nhất là vào những ngày đáo lệ Kỳ Yên, đủ mọi tầng lớp nhân dân hội họp cung thỉnh sắc thần, cực kỳ long trọng và tôn nghiêm.

      Trải qua cuộc binh biến, ngôi đình vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, biểu dương tinh thần dân tộc. Chạnh lòng hoài cổ, các ông Phó tổng Ngô Văn Lân, hương cả Tống Hữu Viên là thân phụ ông Tống Hữu Trung có công lập làng Tân Giai, các vị kỳ lão trong làng cùng nhau đứng ra lo việc tu bổ ngôi đình, nối tiếp phụng thờ.

      Năm 1924, vì bị dòng nước sông Cửu Long đổ xuống sông Cổ Chiên, làm lở mé hữu ngạn sông này, từ trên Vàm Tuần Bắc Mỹ Thuận chạy xuống Vàm Cái Cá và sông Long Hồ, làm ảnh hưởng đến ngôi đình. Quý vị hương chức hội tề bèn lo việc dời ngôi đình vào trong giữa đất liền của làng Tân Giai, gần mé rạch Cái Cá, cầu Kinh Cụt.

      Hiện nay, nhằm đáp ứng niềm sùng kính của nhân dân địa phương, các vị trong ban hội hương đã đứng ra trông nom và tái thiết lại ngôi đình. Trước hết là để bảo tồn cổ tích, sau nữa là nơi tôn nghiêm thờ phụng trong làng, gợi tinh thần yêu nước thương nòi, nhen nhúm lửa thiêng nơi lòng đồng bào không quên đất nước, tiền nhân.

Miếu

Miếu Văn Thánh là dấu tích cổ xưa nhất ở Vĩnh Long (theo Địa phương chí tỉnh Vĩnh Long). Với lòng nhiệt thành của mình, Đề học Nguyễn Thông đã đứng ra vận động và xây cất Văn Thánh Miếu để thờ Đức Khổng Tử và các bậc hiền triết là môn đệ của đức Khổng. Công trình được khởi công năm Giáp Tý 1864 và hoàn thành vào cuối năm Bính Dần 1866 với kiểu kiến trúc truyền thống Việt Nam:
1) Chánh điện: Thờ Đức Khổng Tử. Hai bên Tả ban, Hữu ban thờ Tứ phối, Thập triết.
2) Hai miếu nhỏ hai bên: Tả vu, Hữu vu thờ Thất thập nhị hiền.
3) Văn Xương Các: Phía trước và bên tả Văn Thánh Miếu có xây dựng toà Văn Xương Các. Tầng trên lầu thờ 3 vị Văn

      Xương Đế Quân. Tầng dưới lầu, căn giữa để một cái khánh sơn son thiếp vàng, để bài vị thờ cụ Võ Trường Toản và hình cụ Phan Thanh Giản, phía ngoài cái khánh có khắc một đôi liễn với nội dung: "Hoàng phong xử sĩ thanh cao lão. Tự hiệu thư sinh tiết liệt thần" (Câu trên nói về cụ Võ Trường Toản, là một ông già thanh cao, ở ẩn dạy học, không chịu ra làm quan, được vua Gia Long cho là "Sùng đức xử sĩ". Câu dưới nói về cụ Phan Thanh Giản, vốn là bề tôi tiết liệt, khi sắp chết, dặn ghi trong tấm triện là "lão thư sinh" mà thôi)

Văn Thánh Miếu

Đền Văn Thánh Miếu trên đường Văn Thánh Vĩnh Long

      Bên cạnh các danh nhân, Vĩnh Long có nhiều di tích lịch sử đáng nói. Một trong những di tích đó là Văn Thánh Miếu, xem như một trong những di tích lịch sử xưa nhất của đất Vĩnh Long. Miếu được thành hình do công của Đề Học Nguyễn Thông, người đã đứng ra xây cất để thờ Đức Khổng Tử và các bậc hiền triết. Khởi công từ năm 1864, Văn Miếu hoàn tất năm 1866, bao gồm: (1)một chánh điện thờ Đức Khổng Tử, với hai bên Tả Ban và Hữu Ban thờ Tứ Phối và ThậpTriết, (2) hai miếu nhỏ hai bên gọi là Tả Vu và Hữu Vu, thờ thất thập nhị hiền,và (3) Văn Xương Các trước Văn Thánh Miếu, trên lầu thờ Văn Xương Đế Quân, dưới lầu thờ Võ Trường Toản và cụ Phan Thanh Giản. Phía ngoài có đôi liễn:

“Hoàng phong xử sĩ thanh cao lão,
Tự hiệu thư sinh tiết liệt thần”

      Câu trên nói về Võ TrườngToản là một cụ già thanh cao, không chịu ra làm quan, ở ẩn dạy học, được vuaGia Long cho là “Sùng Đức Xử Sĩ.” Câu dưới nói về cụ Phan Thanh Giản, một bềtôi tiết liệt, nhưng khi gần chết dặn người sau chỉ ghi câu “lão thư sinh” (họctrò già) mà thôi. Lúc sinh tiền, khi làm Kinh Lược Vĩnh Long, cụ Phan thường cùng Đề Học Nguyễn Thông nhóm họp các văn nhân thi sĩ tại Văn Thánh Miếu, đọc sách,làm văn. Thượng Thư Bộ Học Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục) đời vua Duy Tân, có viếng VănThánh Miếu, và nhân đó có đề đôi liễn:

"Xuân Thu hà đẳng càn khôn, đạo tại ngũ kinh song nhật nguyệt,
Thù Tứ biệt thành võ trụ, đồ qua lục tỉnh nhất cung tường.”

(Đời Xuân Thu trời đất bậc nào, đạo ở năm kinh đôi nhật nguyệt,
Sông Thù, Tứ cõi bờriêng đó đường qua sáu tỉnh một cung tường)

Sông Cổ Chiên

Bên bờ sông Cổ Chiên hiền hoà

      Có những giai thoại gắn liền với những địa danh đặc biệt nổi tiếng ở Vĩnh Long xưa như sông Cổ Chiên chẳng hạn. Sông Cổ Chiên ở Vĩnh Long là nơi từng xảy ra nhiều trận hải chiến lịch sử giữa quân ta và quân Xiêm, quân ta và quân Chân Lạp, và giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh. K. Có người bảo đó là oan hồn các chiến sĩ trận vong, Vậy phải lập đàn cầu siêu cho các vong linh để cho vùng này được yên ổn. Dân chúng nghe theo, lập đàn cầu siêu cho các oan hồn. Từ đó yên ổn, không còn bóng hình ma quái nữa.

      Tên con sông Cổ Chiên bắt nguồn từ ... Nhưng cũng từ đó lại sinh ra những tiếng động lạ lùng như vang lên từ dưới đáy sông, nghe kỷ thì như tiếng chuông, tiếng trống vang dội ầm ĩ. Từ đó người ta gọi sông này là sông Cổ Chiên là vì vậy. Cổ là trống, Chiên có lẽ là Chiêng, tức là tiếng chiêng, tiếng trống vang dầy.

Địa danh Long Hồ

      Một giai thoại khác cũng rất đặc biệt, có liên hệ tới danh xưng Long Hồ. Ở Vĩnh Long có một nơi mà Tiền Giang và Hậu Giang cùng mấy sông khác tiếp nối nhau làm cho nước xoáy vòng và người địa phương ở đây đặt tên chỗ đó là Hồi Oa, tức là nơi Nước Xoáy. Người ta kể là hồi năm 1787 dân chúng ở Hồi Oa xôn xao về tin Thánh Giá(Nguyễn Ánh) sẽ ngự đến đây và như vậy chắc chốn này không tránh được nạn đao binh (giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh). Ít lâu sau Nguyễn Ánh đến thật, và nhà vua đã chiêu dụ được nhiều người trong vùng, gây nhiều cảm tình trong dân chúng, được mọi người hết lòng phò giúp.

      Nguyễn Ánh cho xây đắp thành đất ở đây hai bên có lập đồn phòng thủ. Binh Tây Sơn nhiều lần tiến đánh nhưng không thắng nổi đành phải rút quân. Nguyễn Ánh xem đây là đất hưng vượng bèn cho đổi tên Hồi Oa thành ra Long Hưng.Các vùng gần đó đều đổi tên có chữ Long đứng đầu như Long Ẩn, Long Thắng, Long Hậu, v v . . . Con sông Long Hồ trước kia mang tên Chân Lạp là Tầm Vồ cũng theo xu hướng chung đó mà đổi là sông Long Hồ. Đêm đêm người ta còn nghe các cô gái chèo ghe ngâm :

“Tầm Vồ rày đã đóng đô,
Xin quan đổi lại Long Hồ cho xinh”

Cù lao Tân Phong
Ghe cào ốc Gạo Cù lao Tân Phong.. có quí vị nào muốn đi cào chung không nè !!

      Vĩnh Long xưa có cù lao (Cồn) Tân Phong, thuộc quận Chợ Lách( nay Chợ Lách thuộc tỉnh Bến Tre), rất nổi tiếng về sản xuất ốc gạo. Cồn Tân Phong nằm giữa dòng sông, dài khoảng 3 km, ngang chừng 1,5 km. Ở đây ốc gạo sản sinh nhiều và nhanh, chỉ 3 tháng là ăn được. Mùa ốc gạo là từ tháng 3 đến tháng 6, đặc biệt trong tháng 5 là ốc ngon nhất.

Kính tặng cho quí vị một thúng ốc Gạo của Cù lao Tân Phong nè .. Kính mời

      Đồng bào Tân Phong thường bắt ốc gạo ban đêm để sáng hôm sau bán ở chợ Vĩnh Long, Cái Bè, Mỹ Tho. Muốn bắt ốc gạo người ta phải lặn xuống đáy sông (ở những nơi sông không sâu), và bãi sông cào ốc, đãi ốc vào rổ rồi chuyển cho tốp người khác đem lên bờ đãi tiếp cho sạch ốc. Phần đônglà phụ nữ làm các công việc vận chuyển trên bờ. Ở những nơi sâu người ta phải dùng vợt bằng dây gai lặn xuống xúc ốc lên đổ ngay lên ghe đậu gần bên.

      Ngày xưa khi chưa có cầu, mỗi lần qua Bắc Mỹ Thuận người ta thường thấy nhiều người bán ốc gạo. Đó là ốc gạo sản xuất ở Cù Lao Tân Phong. nay Bắc Mỹ Thuận không còn.Chỗ này bây giờ là một cây cầu rất hiện đại giúp việc lưu thông từ Miền Đông qua Miền Tây (hay ngược lại) hết sức dễ dàng tiện lợi. Nhưng những người của. Trong dịp này ban tổ chức cũng đã phát hành tuyển tập Vĩnh Long, Địa Linh Nhân Kiệt do Hội Đồng Hương Vĩnh Long ấn hành năm 2006 gồm nhiều bài sưu tầm khảo cứu công phu và có giá trị lịch sử liên quan đến tỉnh Vĩnh Long.

Mô hinh : Chùa Phật Ngọc Xá Lợi Vĩnh Long ( Vị trí thuộc Bảo Tháp cũ )

      Một số Hội Ái Hữu - Cựu Học Sinh .. Ở Mỹ (Nam California) hội Ái Hữu Tống Phước Hiệp đã được thành lập từ mấy năm nay dưới sự hướng dẫn của giáo sư Đào Khánh Thọ và giáo sư Võ Thị Ngọc Dung (hai vị đều là cựu giáo sư và cựu hiệu trưởng của trường Tống Phước Hiệp), Thầy Lê Tấn Lộc ( hiện làm việc tại Đại học Sorbonne, WebBlog của Thầy http://letanloc.blogspot.com, Hội Ái Hữu Kỹ Thuật Vĩnh Long, có Cô: Nguyễn thị Nhiều, Lê thị Thu Vân, Nguyễn thị Ngọc Anh, Lê Thị Kim Phượng; Thầy: Nguyễn văn Hoa, Nguyễn Hữu Cang, Phạm Huy Nhật...Ban Tổ chức có các anh chị Trần văn Ri, Huỳnh Xuân Trọng, Nguyễn Minh Thu, Huỳnh Ngọc Anh, Lê Quốc Trinh & Phạm thị Minh Nguyệt, Hình Thành Phúc, Trương văn Còn, Đường Vũ Đạt Website
      Ngoài ra, trên thế giới hiện giờ có nhiều hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Petrus Ký như Hội Petrus Ký Bắc Cali, Hội Petrus Ký Nam Cali, Hội Petrus Ký Âu Châu, Hội Petrus Ký Úc Châu, v.. v đã qui tựu rất nhiều vị giáo sư, nhân viên, cựu học sinh và các thân hữu.

Bùi Quang Võ sưu tầm - tổng hợp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét