Thứ Ba, 11 tháng 3, 2025

Thơ Tranh: Vòm Trời Kỷ Niệm

 


Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Kim Oanh

Dáng Hoa

Dáng ai sao khó dệt thành thơ
Khiến kẻ thi nhân phải dật dờ
Yểu điệu đào tươi còn ấp ủ
Thướt tha phượng thắm vẫn ơ hờ
Quên vần đắm sắc đan hồn mộng
Nương gió thả lòng kết cõi mơ
Xui khách đa tình thêm vọng ảo
Buồn cho nghiên bút chịu bơ vơ.

Quên Đi


TôI Nợ Em

 

Tôi nợ tình em thời nữ sinh
Nợ thời áo trắng gái đoan trinh
Nợ em nụ tím cài trên tóc
Nở cả trời thơ những đoạn tình.

Nợ em thuở ấy còn trong trắng
Cả nét ngây thơ chiếm cõi hồn
Nợ trái tim hồng hay loạn nhịp
Nợ tình chiếm hết cõi lòng son.

Tôi nợ tình em cả giấc mơ
Nợ thời con gái cả hồn thơ
Ngôn tình hoa bướm đầy trang giấy
Nắn nót thêu hoa những đợi chờ.

Tế Luân

Hoa Mười Giờ


Bé nhỏ đơn sơ lại tím màu

Nào là chậm nở lại tàn mau
Giữa khu vườn nhỏ hương e ấp
Trong lúc trời tươi sắc úa nhàu
Thân phận cỏ cây không hiện tại
Cuộc đời chóng vánh chẳng mai sau
Dẫu sao vẫn được khoe mình vậy
Bé nhỏ đơn sơ lại tím màu.

Thái Huy 
Jan/10/25

滿庭芳 - 李清照 Mãn Đình Phương – Lý Thanh Chiếu


滿庭芳 - 李清照   Mãn Đình Phương – Lý Thanh Chiếu

残梅            Tàn Mai

小閣藏春, Tiểu các tàng xuân,
閒窗鎖晝, Nhàn song tỏa trú,
畫堂無限深幽。 Họa đường vô hạn thâm u.
篆香燒盡, Triện hương thiêu tận,
日影下簾鈎。 Nhật ảnh hạ liêm câu.
手種江梅更好, Thủ chủng giang mai cánh hảo,
又何必、臨水登樓。Hựu hà tất, lâm thủy đăng lâu.
無人到, Vô nhân đáo,
寂寥渾似、何遜在揚州。Tịch liêu hồn tự, Hà tốn tại Dương châu.

從來, Tùng lai,
知韻勝, Tri vận thắng,
難堪雨藉, Nan kham vũ tạ,
不耐風揉。 Bất nại phong nhu.
更誰家橫笛, Cánh thùy gia hoành địch,
吹動濃愁。 Xuy động nùng sầu.
莫恨香消雪減, Mạc hận hương tiêu tuyết giảm,
須信道、掃跡情留。Tu tín đạo, tảo tích tình lưu.
難言處, Nan ngôn xứ,
良宵淡月, Lương tiêu đạm nguyệt,
疏影尚風流。 Sơ ảnh thượng phong lưu.

Chú Thích

1- Mãn đình phương 滿庭芳: tên từ bài, tên khác là “Tỏa dương đài 鎖陽台”, “Mãn đình sương 滿庭霜”. V.v. Bài này có 95 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn có 4 bình bận. Cách luật của Lý Thanh Chiếu:

T T B B cú
B B T T cú
T B B T B B vận
T B B T cú
T T T B B vận
T T B B T T cú
T B T, B T B B vận
B B T cú
T B B T, B T T B B vận

B B cú
B T T cú
B B T T cú
T T B B vận
T B B B T cú
B T B B vận
T T B B T T cú
B T T, T T B B vận
B B T cú
B B T T cú
B T T B B vận

2- Nhàn song 閒窗: văn chương thuờng dùng chữ nhàn ghép với danh từ để chỉ tình trạng bình thường của sự vật, không có gì đặc biệt xẩy ra. Thí dụ như “Nhàn giai: bậc thềm bình thường”, “Nhàn song: cửa sổ bình thường”, v.v.
3- Triện hương篆香: một loại hương vòng.
4- Liêm câu 簾鈎: móc để treo màn, rèm.
5- Thủ chủng 手種: tự tay trồng.
6- Giang mai 江梅: hoa mai mọc ở bờ sông. Thực ra trong bài này, chữ giang mai chỉ loại mai quý như ngày xưa Hà Tốn ở Dương Châu làm bài thơ “Vịnh tảo mai 詠早梅”.
7- Cánh更: càng, bản khác chép “Tiệm 漸: dần”.
8- Lâm thủy đăng lâu 臨水登樓: thành ngữ này xuất xứ từ bài thơ “Tống nhân quá Vệ châu 送人過衛州” của tác giả Dương Cự Nguyên 楊巨源 thời Trung Đường:

“論舊舉杯先下淚,Luận cựu cử bôi tiên hạ lệ,
“傷離臨水更登樓。Thương ly lâm thủy cánh đăng lâu.
“Nói chuyện cũ, nâng ly rượu tiễn biệt, chưa uống mà lệ đã rơi,
“Ly biệt buồn thương bên bờ nước (sông Vệ Hà), lại lên lầu nhìn bóng người đi”.

Từ đó có thành ngữ “Lâm thủy đăng lâu” nói lên sự tống biệt.
Cũng có người nói thành ngữ này xuất xứ từ bài “Đăng lâu phú 登樓賦” của Vương Xán 王粲 thời Đông Hán東漢:

“登茲樓以四望兮,Đăng tư lâu dĩ tứ vọng hề, Lên lầu ấy để nhìn bốn phía chừ,
“聊暇日以銷憂。Liêu hạ nhật dĩ tiêu ưu. Tạm hãy tại ngày nhàn hạ để tiêu sầu.

9- Hồn tự渾似: hoàn toàn giống. Bản khác chép “Kháp tự恰似: vừa như”.
10- Hà Tốn 何遜: vị quan nhỏ ở Dương Châu 揚州 thời nhà Lương 梁 Nam Triều 南朝, lúc đó quan phủ trồng 1 cây mai rất đẹp, thường thường ra đó xem hoa và ngâm thơ. Hà tốn tại Dương Châu何遜在揚州: lấy chữ từ bài thơ “Hòa Bùi Địch đăng Thục châu Đông đình tống khách phùng tảo mai tương ức kiến ký 和裴迪登蜀州東亭送客逢早梅相憶見寄” của Đỗ Phủ杜甫:

“東閣官梅動詩興,Đông các quan mai động thi hứng,
“還如何遜在揚州。Hoàn như Hà Tốn tại Dương Châu.
“Ở lầu Đông các thấy cây mai của quan phủ nên động thi hứng,
“Giống như Hà Tốn ở Dương Châu "

11- Vận thắng 韻勝: đẹp nhã nhặn.
12- Nan kham vũ tạ 難堪雨藉: không chịu đựng được mưa vùi dập.
13- Bất nại phong nhu不耐風揉: không chịu đựng được gió táp.
14- Hoành địch 橫笛: phiếm chỉ khúc nhạc tấu bằng cây sáo cầm ngang trước mặt, ý nói thổi sáo bài sáo “Mai hoa lạc”.
15- Hương tiêu 香消: mùi thơm biến mất.
16- Tuyết giảm 雪減: bản khác chép “Ngọc giảm 玉減”.
17- Tảo tích 掃跡: quét sạch không để lại ngấn tích. Tảo tích tình lưu: ngấn tích bị quét sạch nhưng cái tình còn lưu lại.
18- Lương tiêu 良宵: ban đêm có cảnh sắc đẹp hoặc là một đêm dài an lành hoặc đơn giản là đêm khuya. Lương tiêu cũng ám chỉ ngày rằm tháng giêng.
19- Sơ ảnh 疏影 = vật cảnh hy sơ 物影稀疏: cảnh vật thưa thớt. Sơ ảnh cũng có thể hiểu đơn giản là “Hình bóng”.
20- Phong lưu 風流: phong độ, nghi thái.

Dịch Nghĩa

Hoa mai tàn.

Căn gác nhỏ đượm không khí của mùa xuân,
Cửa sổ đóng kín,
Trong căn nhà hoa lệ vô hạn thâm sâu u tĩnh.
Cây hương vòng đã cháy hết,
Ánh nắng chiếu lên móc câu của tấm màn cửa.
Tự tay trồng được cây mai rất đẹp,
Việc gì phải đi du ngoạn và lên lầu ngắm cảnh xa (phí thời quang).
Không có ai đến (với tôi),
Hoàn cảnh tịch liêu giống như năm xưa Hà Tốn tại Dương Châu.

Xưa nay,
Vẫn biết hoa mai đẹp thanh cao nhã nhặn,
Nhưng không chịu đựng được mưa vùi dập,
Cũng không chịu đựng được gió thổi sương táp.
Lại có tiếng sáo nhà ai thổi (bài mai hoa lạc),
Nghe buồn não nùng.
Đừng hận vì hương thơm tan mất, cánh hoa tàn rụng như tuyết,
Nên biết rằng hoa bị quét sạch tông tích nhưng tình ý giữ lâu mãi.
Chỗ ngôn ngữ khó biểu đạt là,
Trong những đêm lành mỹ hảo, ánh trăng đạm nhạt nhạt,
Hình ảnh hoa mai vẫn lộ vẻ phong lưu thanh nhã.

Phỏng Dịch

1 Mãn Đình Phương - Tàn Mai

Gác nhỏ ngày xuân,
Song thường khóa kín,
Nhà hoa vô hạn thâm sâu.
Hương vòng tàn hết,
Ánh nắng chiếu rèm châu.
Trồng được cây mai quá đẹp,
Việc gì phải đi du ngoạn, lên lầu ngắm cảnh.
Không ai đến,
Tịch liêu tương tự, Hà Tốn tại Dương Châu.


Xưa nay,
Thanh nhã đẹp,
Không kham gió đập,
Chẳng chịu mưa nhầu,
Sáo ngang nhà ai thổi,
Động mối u sầu.
Đừng hận hương tan ngọc nát,
Nên biết đấy, cảnh mất tình lâu.
Còn gì nói,
Đêm thanh nguyệt đạm,
Hình bóng vẫn phong lưu.


2 Hoa Mai Tàn

Gác nhỏ ươm xuân cửa khóa kín,
Nhà hoa vô hạn bước thâm sâu.
Tàn hết hương vòng ngày sắp cạn,
Chiều hôm nắng chiếu trên rèm châu.

Cây mai vun sới đẹp ai bì,
Du ngoạn, lên lầu, chẳng nghĩa chi.
Phòng khuê tịch mịch không người đến,
Hà Tốn Dương Châu có khác gì.

Xưa nay thanh nhã không kham gió,
Chẳng chịu mưa nhầu trên cõi đời.
Tiếng sáo nhà ai chợt ảm đạm,
Buồn trong giây phút hoa tàn rơi.

Đừng hận mãi hương tan ngọc nát,
Cảnh xưa tiêu thất tình bền lâu.
Còn nói chi, trăng thanh đạm nhạt,
Hoa mai cảnh sắc vẫn phong lưu.


HHD
10-2021
***
Hoa Mai Tàn

1-

Gác nhỏ chứa xuân
Cửa song đóng kín
Nhà hoa vô hạn âm u
Hương vòng cháy hết
Nắng chiếu móc màn châu
Tự trồng cây mai rất đẹp
Hà tất phải đến bến, lên lầu
Không ai đến
Hoàn cảnh tịch liêu, như Hà Tốn, Dương Châu

Xưa nay
Biết thanh nhã
Chẳng kham mưa dãi
Khôn chịu gió dầu
Thêm nhà ai tiếng sáo
Thổi nghe buồn sầu
Chớ hận hương tan tuyết giảm.
Nên biết rằng ngấn sạch tình lưu
Chỗ khó nói
Đêm lành trăng nhạt
Hình ảnh rất phong lưu.


2-

Gác xuân nhỏ, kín cửa song
Âm u vô hạn, nhà bông nức lời
Hương cháy hết, rèm nắng soi
Tự trồng mai quý tuyệt vời bấy lâu
Đâu cần lại bến, lên lầu
Không ai. Hà Tốn, Dương Châu u hoài

Biết hoa thanh nhã xưa nay
Chẳng kham mưa bủa, gió vây mấy tầng
Nhà ai tiếng sáo sầu dâng
Hương tan tuyết giảm chẳng sân oán cừu
Hiểu rằng dấu sạch tình lưu
Đêm lành trăng nhạt phong lưu bóng hình!

Lộc Bắc

Mars25



Thứ Hai, 10 tháng 3, 2025

Mắt Biếc - Ngô Thụy Miên - Phạm Cao Tùng


Sáng Tác: Ngô Thụy Miên
Trình Bày: Phạm Cao Tùng
Thực Hiện: Phạm Cao Tùng

Thôi

        
                                              

Người lính xưa giờ cõi lòng thấm thía
Vị cay nồng xé nát cả tim gan ...
Mấy mươi năm biết chán, vẫn đành cam
Riêng thương cảm, đừng khóc than chi nữa ...

Cõi nhân sinh diễn tấn tuồng trót lựa
Nón áo mang, vai trĩu nặng vô tri
Buông đi thôi, gánh nặng trĩu vô nghì
Sâu tâm thức, hồn rứt ray ... hụt hẫng!

Thiên Phương


Nén Nhang Lòng


Ðây một nén nhang lòng
Thắp dâng Hồn Tử-Sĩ 
Muôn đời gương xả-kỷ:
Nước nạn thà thân vong.

Ðây, một giọt lệ nồng
Sớt chia niềm xót hận:
Sự-nghiệp nào khánh-tận!
Thân-phận nào long-đong!

Ðây, một nấm mồ chung
Chôn Ngu, Lầm, Xấu, Ác.
Ruột ung nên thuốc rát:
Nhĩ nghịch mà ngôn trung.

Ðây, một đóa hoa hồng
Nở trên đường Chính-Nghĩa.
Chỉ duy Chân Thiện Mỹ
Tồn-tại với Non Sông...

Thanh Thanh

(“Về Vùng Chiến-Tuyến”)


Đâu Là Quê Hương?


Quê hương nơi có đồng xanh
Thiên đàng cây cỏ vây quanh núi đồi
Thú hoang đùa giỡn reo cười
Trăng treo lơ lửng giữa trời tịch liêu

Quê hương rực rỡ ráng chiều

Àm ầm tiếng thác bên đèo tấu lên
Suối xanh chìm giấc cô miên
Muôn ngàn con suối thản nhiên qua rừng

Chim muông ca hót vang lừng

Nắng thần tiên rọi chiếu từng lũng sâu
Nay tôi đang đứng ở đâu
Cỏ cây khô úa đục ngầu nước sông

Màu xanh rời bỏ cánh đồng

Cơn mưa hạnh phuc cũng không muốn về
Nơi đây sỏi đá ê chề
Biến thành hoang mạc bốn bề quạnh hiu!

Dường như phố xá dập dìu

Chỉ là di tích mỹ miều xa xưa
Bây giờ ai biết nắng mưa
Là bao kỷ niệm thuở chưa biết buồn

Nước đi mưa lại về nguồn

Lá rơi về cội nghe hồn bơ vơ
Đồng xanh ta vẫn đợi chờ
Mây trôi bèo dạt bến bờ là đâu

Này từng giọt lệ ngàn sau

Khóc cho tình nhớ bên màu cờ tang
Địa đàng hay chốn hoang đàng
Tang thương một cuộc bẽ bàng nghìn năm!

Mường So Đèo Văn Trấn
Nowhere, Việt Nam, March 2025



Về Với Quê Cha


Tôi sống với ngoại tôi từ lúc mới lọt lòng, không biết hồi nhỏ má có về thăm tôi thường xuyên không? Nhưng từ khi tôi năm, sáu tuổi, tôi biết thắc mắc về cha mẹ tôi, thì tôi có thỉnh thoảng gặp má, thường là mỗi năm một hai lần, má chỉ nói chuyện với tôi qua loa vài câu, cho miếng kẹo tấm bánh rồi đi. Má ít khi bày tỏ tình thương yêu với tôi, nếu có thì cũng vội vàng thoáng qua, và tôi cũng không thấy lưu luyến hay thương má. Tất cả tình thương của tôi chỉ dành cho ngoại, chỉ biết có ngoại.

Hai bà cháu sống trong ngôi nhà nhỏ bé và cũ kỹ. Sau nhà là một dòng sông không biết chảy về đâu. Cạnh bờ sông có một cây phượng vỹ to lớn, mỗi mùa hè hoa phượng đỏ nở rực rỡ trời xanh và rực rỡ cả một khúc sông, khi những hoa phượng rụng xuống trôi lênh đênh, dập dềnh theo sóng nước.
Tôi lớn lên bên cạnh ngoại. Ngoại là bà mẹ chăm sóc bú mớm tã lót cho tôi lúc nhỏ, và manh quần tấm áo, miếng cơm khi tôi lớn dần, những gánh rau ngoại bán ở chợ đủ cho hai bà cháu cơm cháo qua ngày. Tôi cũng được cắp sách đến trường như con người ta, ngoại thường bảo:
“Ráng học đi con, mai mốt lớn có chữ cho đời bớt khổ”

Tôi học cũng được lắm, nhưng đi học toàn bị lũ trẻ cùng lớp hà hiếp, trêu chọc tôi chỉ vì tôi là đứa con lai với làn da đen đủi và mái tóc quăn tít. Mỗi lần về mét ngoại tôi khóc, ngoại ôm tôi dỗ dành rồi ngoại cũng khóc, tôi đòi nghỉ học hoài nhưng ngoại không cho.
Năm tôi lên mười, ngoại ngã bệnh không thể gánh rau ra chợ bán được nữa, tôi phải nghỉ học để kiếm tiền thay cho ngoại. Tôi đã lam lũ ở cái tuổi mà bao nhiêu đứa trẻ khác đang được ăn học, nuôi dưỡng trong vòng tay yêu thương che chở của cha mẹ. Tôi làm đủ thứ việc mà chòm xóm cần, từ bế em, gánh nước tưới rau và bao nhiêu công việc không tên khác, người ta trả công cho tôi bằng tiền, bằng gạo, có khi bằng những bộ quần áo cũ. Chòm xóm ai cũng hiểu hoàn cảnh của hai bà cháu nên người ta mướn tôi làm vì lòng thương hại, để giúp hai bà cháu có miếng cơm ăn. Những cái chép miệng, những lời nói chân thành cảm thông lọt vào tai tôi thường là:
“ Tội nghiệp con nhỏ, xấu người, xấu số! May mà có bà ngoại nuôi”, hoặc là:
“ Mày phải thương ngoại mày nghe hôn, hồi mới sanh mày, má mày muốn đem cho viện mồ côi, nhưng ngoại mày cản dữ lắm và đem mày về nuôi. Chưa hết đâu, hồi 30 tháng 4 năm 1975, thời điểm hỗn độn Sài Gòn đang sụp đổ, mày mới vài tháng tuổi, má mày cũng nằng nặc đòi cho mày đi di tản theo chương trình gì đó của người Mỹ, mang con nít diện con lai, diện mồ côi qua Mỹ, một lần nữa ngoại cương quyết giữ mày lại, ngoại sợ qua bển không ai lo cho mày còn quá bé bỏng, ở lại dù nghèo mạt nhưng còn có tình máu mủ bà cháu …”
Tôi nghe được những chuyện đó tôi càng thương ngoại hơn.

Một hôm, ngoại bị bịnh hoài không hết, người ngoại nóng sốt và rên hừ hừ suốt ngày. Tôi sợ quá, lúc đó tôi liền nghĩ đến má, cầu cứu má coi có giúp được gì không. Tôi để ‎ý mỗi lần má nói chuyện với ngoại nên tôi biết má đang sống ở thị xã, cách làng quê tôi mấy chục cây số. Thế là tôi đi xe đò lên thị xã và kiếm được nhà má dễ dàng. Khi gặp tôi, má không tỏ vẻ ngạc nhiên hay vui mừng gì, mà còn tức giận mắng tôi một tràng xối xả:
“ Mày lên đây làm gì? Ngoại bịnh ra sao từ từ tao cũng về dưới mà! Thôi, mày về lẹ đi kẻo ổng về tới cằn nhằn chửi bới nhức cái đầu lắm! Khổ lắm con ơi!!!”
“Ổng” ở đây là chồng của má tôi. Lúc đó có một con nhỏ, kém tôi chừng vài tuổi đang đứng cạnh má, nó nhìn tôi bằng đôi mắt hiền lành và thương hại. Nó níu tay má năn nỉ:
“Thôi má, đừng la nó, coi chừng nó khóc kìa!”
Và tôi khóc thật, lủi thủi quay ra mà má không buồn gọi lại. Được cái an ủi là hôm sau má có về thăm ngoại. Ở tuổi mười hai, tôi chỉ biết tự trách mình và suy luận rằng nhà má cũng nghèo rớt mồng tơi, đâu hơn gì nhà ngoại, ai biểu mình lên quấy rầy má, làm má thêm lo nên má mới nổi quạu. Từ đó tôi không bao giờ lên nhà má nữa.
Càng lớn tôi càng làm được nhiều việc hơn, mười lăm tuổi tôi đã biết gánh rau ra chợ bán như ngoại ngày xưa, cuộc sống vẫn đạm bạc và êm ấm, ngoại thương tôi bao nhiêu tôi thương ngoại bấy nhiêu. Hôm nào bán đắt hàng tôi liều mình mua miếng thịt, con cá nấu một bữa ăn ngon, ngoại rầy yêu tôi:
“Con đừng xài…sang nữa nha, để dành tiền mà lo cho sau này rủi có chuyện gì xảy ra còn dễ bề xoay sở!”
Mười lăm tuổi tôi đầu tắt mặt tối, cơm gạo kiếm từng ngày, tôi chưa kịp trở mình thành thiếu nữ để mơ mộng với cây phượng vỹ cổ thụ sau nhà mỗi mùa hè những chùm hoa đỏ soi bóng trên dòng sông…thì một hôm má tôi về. Lần đó, trông má vui hơn tất cả mọi lần, rồi với nét mặt nghiêm trang, má nói chuyện với ngoại và tôi, là má giao tôi cho một gia đình xin tôi làm con nuôi để họ làm giấy tờ xuất cảnh qua Mỹ, đổi lại má được mười cây vàng. Mới nghe, ngoại phản đối dữ dội lắm, bao nhiêu năm qua nghèo khổ vẫn sống được thì cần gì mấy cây vàng hay đi Tây đi Mỹ. Còn tôi chỉ biết ôm ngoại, rồi nhìn má và khóc:
“Con xin má để con ở nhà với ngoại, con không muốn đi đâu hết á”
Má hết ngọt lại gắt, hết cứng lại mềm, rồi má năn nỉ khóc lóc:
“Con ơi, vì chồng má cờ bạc nợ nần ngập đầu ngập cổ, cần tiền trả nợ. Má hứa sẽ bỏ ra một cây vàng để sửa lại nhà cho ngoại, má hứa sẽ nuôi ngoại. Bao nhiêu năm nay má đã không nuôi được con, không lo cho con được một mái gia đình tử tế, thì bây giờ là dịp để con đổi đời, để thoát khỏi sự khinh chê dè bỉu của xã hội này với đứa con lai! Má còn nghe nói, con qua đó dễ làm ăn hơn bên đây, kiếm tiền về nuôi ngoại, báo hiếu cho ngoại. Con thương ngoại và thương má nghen con …”
Cuối cùng ngoại cũng đành nhắm mắt gật đầu chấp nhận và nhắn nhủ tôi:
“Con qua tới Mỹ thì cứ lo cho thân con trước đi, hễ con sướng là ngoại vui rồi, đừng lo cho ngoại!”
Tôi lo lắm, một thân một mình nơi xứ người với một gia đình hoàn toàn xa lạ, rồi tôi sẽ sống ra sao? Mà thôi, dù muốn dù không tôi cũng không thể thay đổi được đời mình, chỉ cầu xin đúng như lời má nói, tôi sẽ kiếm được tiền gửi về nuôi ngoại. Hôm giã từ ngoại để theo mẹ nuôi lên Sài Gòn tôi khóc như mưa.
Tôi trở thành cục cưng của gia đình mẹ nuôi. Họ may sắm quần áo, nữ trang cho tôi, chìu chuộng tôi đủ thứ, không dám nói một câu hớ hênh làm mất lòng tôi, và hứa hẹn tôi đủ điều. Nói tóm lại là nếu tôi ngoan ngoãn trong tay họ, được tới Mỹ họ cũng giúp lại tôi học chữ, học nghề hay kiếm việc làm …nên tôi cũng yên lòng.
Sang tới Mỹ, thời gian đầu tôi bận rộn đủ thứ, chỉ nội việc đi học ESL cũng làm tôi bù đầu. Chữ gì mà khó học, khó nhớ, học được chữ này thì rớt mất chữ kia, trong khi các con của mẹ nuôi tôi thì tiến bộ trông thấy, dù gì ở Việt Nam họ cũng có ăn có học, làm sao tôi so sánh với họ được!
Tôi ở với mẹ nuôi tới năm mười tám tuổi thì chia tay, coi như hai bên sòng phẳng đường ai nấy đi. Tôi cũng may mắn vì gia đình má nuôi giúp đỡ, hướng dẫn tôi rất nhiều, chứ không như một số gia đình “nuôi” con lai khác, qua tới Mỹ là họ trở mặt, thậm chí còn coi rẻ đồ con lai thấp kém, vô học.

Từ lúc ở Phi Luật Tân cho tới khi qua Mỹ, thỉnh thoảng tôi có gửi thư cho ngoại, rồi ngoại nhờ người viết hồi âm cho tôi, thơ nào tôi cũng hứa sẽ cố gắng làm ra tiền gửi về nuôi ngoại.
Công việc đầu tiên của tôi là phụ bếp cho một nhà hàng, cực lắm, làm không nghỉ tay, nhưng so với thời ở Việt Nam thì còn sướng chán, chủ cho ăn cơm trưa và chiều ở tiệm, đồ ăn ngon ê hề phát ngán, tôi lại ước ao giá mà có ngoại ở đây.
Cả tháng lương đầu tiên tôi dành gửi về Việt Nam. Tiền gửi đi rồi, cõi lòng tôi sung sướng thênh thang, tôi hồi hộp chờ mong thư ngoại coi ngoại vui mừng cỡ nào! Và tôi nhận được hồi âm do cô em gái cùng mẹ với tôi:
“ Chị ơi, ngoại mới mất cách đây một tháng, em chưa kịp báo tin cho chị thì nhận được tiền chị gửi về. Sẵn đây em xin phép chị để nhận số tiền đó. Ngoại chết vì bệnh tuổi già thôi, đi nhẹ nhàng chớ không liệt giường liệt chiếu gì, có điều mấy hôm trước khi chết ngoại linh cảm sao đó, cứ nhắc đến chị hoài…”
Sau phần nói về ngoại, phần cuối thư cô em nói về gia đình mình:
“ Chị ơi, lúc này má khổ lắm, ba em cờ bạc, mười cây vàng đánh đổi chị đi Mỹ hết vèo đã đành, mà căn nhà đang ở thị xã cũng bay luôn, nên gia đình em phải dọn về quê ở chung với ngoại, căn nhà vẫn chật hẹp và ọp ẹp như xưa chứ má đâu có tiền mà sửa sang. Nếu chị thương má, thương tụi em thì xin chị gửi về chút tiền sửa nhà nghen chị? Má nhờ em nói với chị, chắc má ngại sao đó nên chưa sẵn sàng viết thư cho chị!”
Đọc thư xong tôi khóc vì ngoại đã mất, còn lòng tôi vẫn không thể thương má. Càng lớn tôi càng hiểu là má đã bỏ bê tôi, dù bao lần ngoại đã rủ rỉ với tôi rằng:
“Má con cũng thương con, nhưng thân má lo không xuể làm sao lo cho con được! Rồi vì hạnh phúc riêng tư của má, đàn bà ai cũng muốn có một hạnh phúc gia đình, chồng của má con không muốn má nuôi con, nên má mới phải xa con, con đừng giận má con, tội lắm!”
Bây giờ tôi hiểu ngoại nói thế để tôi bớt tủi thân và để nhẹ tội cho má.

Ngoại mất đi, coi như tôi không còn gì ở Việt Nam để liên hệ nữa, tôi muốn xé bỏ lá thư của cô em gái và vĩnh viễn quên họ, nhưng nghĩ thế mà không dám làm thế!
Tôi nghĩ đến má và ba đứa em cùng giống tôi một nửa dòng máu, đang sống nghèo khổ trong căn nhà lá dột nát.
Tôi không quên đứa em gái lớn mà năm xưa tôi đã gặp nó khi tôi tìm đến nhà má bị má la, nó đã nhìn tôi bằng đôi mắt dịu dàng thương mến. Cái nhìn ấy như một ân huệ tử tế mà tôi còn nhớ mãi.
Tôi cũng không quên những lời ngoại dạy, sống phải biết bao dung, thương người, huống gì họ là má tôi, là các em tôi. Vả lại, các em tôi nào có lỗi gì!
Thêm điều cuối cùng trăn trở tôi nhiều nhất là, không lẽ đời tôi không có một chốn quê nhà để mà đi về, để mà thương nhớ?! Nơi đây xứ Mỹ là quê cha, nhưng thực tế như bao đứa trẻ lai khác, tôi thực sự là một đứa con hoang không biết cha mình là ai. Còn quê mẹ, nơi có ngôi nhà phía sân sau cây phượng vỹ mỗi mùa hè vẫn đỏ hoa và dòng sông suốt đời vẫn chảy. Tôi đã lớn lên ở đó, những kỷ niệm sẽ không bao giờ quên được.

Thế là tôi viết thư cho cô em, nối lại sợi dây ruột thịt tưởng như không có ở trên đời. Em gái tôi đã lớn, nó đang ở tuổi đôi mươi, em thay tôi đứng bên bờ sông sau nhà mà mơ mộng. Em tả cho tôi mùa hoa phượng đẹp thế nào và em buồn thế nào khi những cánh hoa chín đỏ bị gió lay rụng trôi dạt trên sông.
Chị em tôi không cách biệt tuổi tác là bao, nên như hai người bạn chia sẻ được nhiều điều. Từ cô em, tôi càng ngày càng khắng khít với gia đình má, nhất là từ khi chồng má qua đời vì trúng gió sau một chầu nhậu say mèm. Đôi khi má cũng viết thư cho tôi, có nhắc về những tháng ngày bỏ tôi ở với ngoại, má thấy xấu hổ và xin tôi hãy tha thứ cho má. Dầu sao, cái tình cảm mẹ con quá muộn màng nhưng có còn hơn không. Tôi chắt bóp gửi tiền về để má xây lại căn nhà.
Nhà xây xong, tôi về Việt Nam để hốt cốt ngoại đem vô chùa và để nhìn thành quả đóng góp của mình, ngôi nhà ngoại đã đẹp hơn, rộng hơn.
“ Ngoại ơi, dù ngoại không được hưởng gì, nhưng chắc ngoại cũng hài lòng vì các con cháu của ngoại đã quây quần, gắn bó.”
Trong lúc má quỳ bên bàn thờ ngoại khóc nức nở, tôi bước ra ngoài, cảm động và sung sướng khi nhìn lại cây phượng vỹ và dòng sông sau nhà. Dù đã bao đổi thay nhưng khung cảnh vẫn quá đỗi dịu dàng, rưng rưng sưởi ấm cõi lòng tôi ngày trở về.

Hiện nay, tôi làm supervisor ở cửa hàng Walmart. Chồng tôi cũng là con lai, anh làm thợ sửa xe và khi tay nghề giỏi anh đã sang tiệm làm chủ. Hai vợ chồng siêng năng làm việc, có hai đứa con đang học đại học. Cuộc sống bây giờ đã khấm khá hơn, và tôi dễ dàng gửi tiền về giúp má an vui tuổi già cũng như giúp đỡ các em, các cháu khi cần thiết.

Về với quê cha, nước Mỹ vĩ đại, tôi đã được đổi đời, có những thành quả ngoài sự ước mong của tôi. Nhưng tôi không thể quên quê mẹ. Sau những đau buồn hờn tủi, tôi đã tìm lại tình thương ruột thịt từ má và những người em cùng mẹ khác cha.
Tôi thấy mình thật hạnh phúc khi có đầy đủ những tình thân xung quanh ở cả hai quê.

Kim Loan


Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2025

Huế


Riêng tặng Mệ Chánh...
Kính

Vũ Ngọc Hiển

Nối Dòng Mực Tím


Trăng xưa nay lạc về đâu*
Đã theo con nước qua cầu tháng năm
Từ khi nguyệt vỡ bóng rằm
Hoa xuân héo nụ, chim ngàn bỏ cây

Còn ai thương cội hoa gầy
Thì xin hãy nhớ những ngày biển dâu
Vin tay chạm cánh Mai sầu
Hỏi em, hoa có giữ màu nắng xưa?

Anh còn giữ lại vầng thơ
Em trao, như những đường tơ sợi tình
Trăng tròn soi nét chữ xinh
Xuống dòng mực tím lung linh ánh vàng

Trăng chừ lạc nẻo mù sương
Bụi sa ướt một góc vườn thơ tôi
Loi thoi nỗi nhớ lên chồi
Nối dòng mực tím vẽ lời tri âm

Dầu mai giữa chợ phong trần
Nửa vành trăng khuyết ai cầm đi rao
Vẫn còn chứng tích ngàn sao
Và câu thơ đã lặn vào đáy tim

Quang Hà

*Thơ Githéa

Dòng Suối Đêm

 

Ta còn một nửa vầng trăng
Người đầy nắng sáng mênh mang mặt trời
Thù lao sao nỡ lại đòi
Còn gì để trả cho người. Hỡi ôi!
Thôi thì trả nốt khung trời
Nửa vầng trăng, nửa cuộc đời âm u
Bên người. Có lẽ vào thu
Bên ta dáng hạ ngồi ru sao buồn
Trần gian chảy xuống hai nguồn
Dòng dương hệ, dòng sao cuồng chảy xuôi
Trả người dòng suối đêm tôi
Bọt sao từng chiếc nổi trôi lưu đày
Tôi ngồi soi lại hình hài
Mắt sâu theo nước đêm dài ra khơi
Nửa vầng trăng trả mất rồi
Chỉ còn con suối cuộc đời tối đen

Hoài Tử

Hoa Yêu Dấu...



Nếu em là ... những bông hoa mới nở
Tô điểm đời bằng màu sắc hương trinh
Anh chỉ xin làm cánh bướm vờn quanh
Vờ hôn nhẹ trên cành hoa thơ mộng

Nếu là gió ... anh ngăn cơn gió lộng
Ðể hoa còn hương nhụy chẳng tàn nhanh
Ðể bướm hoa còn quyến luyến trên cành
Hoa đẹp mãi khoe muôn ngàn sắc thắm

Nếu là mưa ... mong là làn mát lạnh
Tưới vào cành cho nở rộn cánh hoa
Nói đi em có phải tình chúng ta
Như hoa bướm vui đời theo năm tháng

Anh sẽ ngăn khi mây mù giăng xám
Gọi nắng vàng chiếu rọi sáng lung linh
Để hoa yêu điểm nét thật trữ tình
Và em mãi là cành hoa yêu dấu ...

Nếu em là... những loài hoa dị thảo
Đẹp sắc mầu tô điểm cả trời yêu
Và em như tia nắng ấm ban chiều
Tim anh sẽ không bao giờ nuối tiếc...

Em cũng biết tim lòng anh tha thiết
Ôm vào lòng như hoa bướm vờn quanh
Để tình ta đẹp mãi giấc mộng lành
Đừng xa cách gọi thầm trong nỗi nhớ

Nguyễn Vạn Thắng


Chậu Cá Của Tôi



Nhìn những con cá đủ màu sắc đang bơi lội, cái đuôi dài, mong manh đang uốn lượn nhịp nhàng, tôi tìm được một cảm giác an bình. Nuôi cá kiểng cũng là một thú tiêu khiển.Tự tìm được cho mình thú tiêu khiển trong cuộc sống vội vã cũng là điều kỳ thú của đời sống.
Với tôi việc chọn lựa làm một cái chậu nuôi cá, không là thú tiêu khiển, mà là chọn lựa phương tiện, vì không còn cách nào khác hơn.

Chậu cá của tôi tiền thân là một bình hoa. Chậu bằng thủy tinh trắng ngần, tròn, to khoảng bằng trái banh bóng chuyền. Đáy dẹp, đủ sức đứng, giữ vững cho chậu và an toàn cho những thứ chứa bên trong. Miệng chậu uốn tròn, cạnh không sắc bén, chẳng thể gây nguy hiểm mỗi khi tay tựa vào hoặc chạm phải. Quanh thành chậu được “trang trí” bởi những hình ảnh cắt ra từ những tạp chí. Đây là hình người cha đang bế đứa con vừa chào đời. Đó là ảnh mẹ bồng con với hàng chữ Bông Hồng Tặng Mẹ được lấy từ bìa hộp băng nhạc cassette. Bên cạnh là hình cậu bé "Joan – Joan” salutes his father’s coffin, trong ngày từ biệt cố Tổng thống John Kennedy. Bên cạnh là ảnh của đôi tài tử Ali MacGraw và Ryan O’Neal trong phim Love Story của thập niên 1970. Miệng chậu được đính bởi sáu dây ruy băng mang ba màu sắc: trắng, tím nhạt và xanh lá mạ. Các sợi dây được thắt thành bím. Cuối một trong hai sợi bím ấy, được luồn ba hạt nhựa hình trái tim, một màu hồng và hai còn lại màu tím. Từ đáy chậu nhô lên hai cành hoa hồng giấy, giắt tựa miệng chậu. Hoa này đã được tôi lấy từ bình hoa hồng của má tôi ngày trước. Chậu có hơn năm năm tuổi, chứa khoảng trên bốn trăm "con cá", to, nhỏ đủ cỡ, tuyền một màu trắng pha lẫn đen.
 Như đã nói, vì chậu cá được xem như một phương tiện, chậu không cần thay nước, vì cần nước đâu để mà thay. Còn "cá" rất ngoan, không làm phiền tôi cho ăn, vì cá cần ăn đâu mà cho. Trên bốn trăm con, mỗi con được bao nylon cẩn thận và dán kín bằng băng keo trong. Những con cá nằm chồng chất lên nhau. Cá không ăn, dĩ nhiên vì thế chúng chẳng lớn dần theo năm tháng. Tuy nhiên, chúng trở nên có một linh hồn sắc sảo mênh mang mỗi khi bàn tay tôi chạm đến và nhìn vào nó. Những con cá luôn nằm yên, tôi chỉ thăm chúng khi lòng nhiều dao động. Những lúc ấy, tôi thường đến tì tay lên thành chậu, không cần chọn lựa bắt lên một con, ngắm nghía, khẽ thở dài, trầm tư, đôi dòng lệ âm thầm lăn dài trên má…và tôi đã tìm chút an bình. Những lúc khác, nỗi đau quá sức chịu đựng, tôi cũng vội vã đến chậu, nhưng rồi nức nở, vội quay đi. Có những lúc khác nữa, tôi lại đến bên chậu, đưa tay xốc nhẹ, cũng chẳng cần chọn lựa, bắt ra một con, cũng nhìn chầm chầm vào cá, khẽ mỉm cười, một sự an bình lẫn hoang mang đến trong suy tư. Những con cá tưởng chừng vô tri này, không bao giờ chết đi mà sống mãi. Chính cái linh hồn sắc sảo của chúng, tâm hồn mở rộng của chúng đã hòa nhập vào tâm hồn tôi, đã mở lòng, mở trí, giúp tôi phần nào, đưa tôi trở lại cuộc đời sau những sầu thảm, tuyệt vọng đến chán chường của “thân gái như hạt mưa sa” và đến hôm nay dù rằng hạt mưa sa đến nơi nào, tôi vẫn biết lựa chọn cách sống đích thực như một con người cho chính mình.

Đến hôm nay, thú đam mê tìm cá cho vào chậu vẫn mãi mãi là đam mê. Đôi khi là hai, ba hoặc đến năm con được bỏ vào chậu cùng một lúc. Thỉnh thoảng, tôi đổ toàn bộ số lượng cá ra bàn, lau sạch chậu cá, nó trở nên sáng loáng, cái sáng bóng ngời của thủy tinh đến làm tôi vui mắt . Hàng năm tôi lại mang cả chậu cá vào lớp học Việt Ngữ, cho mỗi em học sinh tự bắt lấy một con và theo linh hồn nằm trong cá mà làm bài tập. Tôi đang tập cho các em nuôi cá với hy vọng truyền đạt một hành trang vào đời. Rồi một ngày nào đó…khi các em bước vào tuổi dậy thì, xa hơn…một ngày nào đó, nếu không may các em rơi vào như thân phận của tôi hôm nay, các em đã có ít nhiều suy tư từ chậu cá này. Chừng ấy mơ ước thôi, đó chính là lúc các em mang hành trang này vào đời, để dễ dàng chọn hướng đi và giữ vững tâm hồn trước phong ba của cuộc đời hầu tránh khỏi.
Những "con cá" của tôi, bạn đã đoán được chứ? Đó chính là những câu văn ngắn lời, đầy ý - Lời hay ý đẹp - Danh ngôn - Tục ngữ - Ca dao - Hoa thơm cỏ lạ, đã được tôi cắt ra từ những tờ báo, Tuần báo và dán lại bằng nylon. Những lời hay ý đẹp này đã giúp tôi tìm lại sự an bình trong tâm hồn, những lúc sóng gió đến bên cuộc đời, những lúc tưởng chừng sẽ không tránh khỏi chân sa, rơi vào vực thẳm. Vả lại trong đời sống, biết dùng danh ngôn hoặc ý hay để hướng đời sống mình đến một điều tốt đẹp hơn thì cũng là điều hay, nên làm.
Những linh hồn trong các con cá của tôi, này là:

• Một sự thật không thể làm hại một sự thật khác mà chỉ có thể làm chân lý thêm sáng tỏ.(Hoa Thơm Cỏ Lạ)

• Làm đi rồi hãy nói.(Hoa Thơm Cỏ Lạ)

• Nghèo khó không phải là cái nhục, nhưng hổ thẹn vì nghèo mới là cái nhục.(Tục Ngữ )

• Một trái tim để giải quyết, một cái đầu để xếp đặt và một bàn tay để thực hành.(Gibbon – Henry VI)

• Nhân cách là giá trị then chốt của con người.(Hoa Thơm Cỏ Lạ)

• Lưu ý dư luận, nhưng đừng nô lệ cho nó.(Martin Rayan)

• Người ta nhìn thấy rõ với trái tim, đôi mắt không nhìn thấy cái cốt yếu.(Andrew de Saint Exupéry)


Cám ơn "cá", đã cho tôi trái tim để nhìn đời…một trái tim nhân ái.

Kim Phượng