Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2024

Từ Giọng Hát Em - Sáng Tác: Ngô Thụy Miên - Đàn & Hát: Phạm Anh Dũng

 


Sáng Tác: Ngô Thụy Miên
Đàn & Hát: Phạm Anh Dũng


Tiếng Quốc Bi Thương


Não nùng tiếng quốc đêm hè
Canh chầy lữ khách chợt se sắt lòng
Quê hương ngàn dặm những mong
Biết ai là kẻ tâm đồng chung vai
Lật trang oanh liệt những ngày
Một thiên ái quốc chí trai kiêu hùng
Sầu đưa thúc giục cáo chung
Mây quang trời tạnh một vùng chói chang

Kim Phượng

Tháng Tư 2024

Hoa Đào Trong Mưa

 
(Ảnh: Nhất Hùng)

Cuối tuần giông gió kéo dây dưa
Hoa rụng kín nền khách viếng thưa
Trời xám vẻ mây mù chuyển hoá
Đất hồng màu xác pháo giao thừa
Cánh bồng bềnh trên hồ trôi nổi
Nhụy tả tơi dưới gió đẩy đưa
Đào đẹp quá mà sao yểu mệnh
Vừa khoe sắc vội tàn trong mưa


nhất hùng


Song Tu Thiền Định

 

Thơ & Trình Bày: Minh Lương
 

 

Ngồi Ở Quán Givral

 
 
Ngồi ở quán Givral, anh nhìn thấy em trên đường phố, những tà áo mềm mại tung tăng như đàn bướm.

Một buổi sáng bình yên, anh trở về từ chiến trận, ly cà phê tỏa khói, mùi thơm thành phố và những êm đềm của tuổi ấu thơ, anh nhớ tất cả qua làn khói thuốc, ôm ấp màu tóc em trong đó.
Có bạn bè chung quanh, nhưng bao nhiêu người như một, một tâm tình gặp gỡ, ôn cố, rồi chia phôi, nhấp cạn giọt đắng cuối cùng, sao vội qúa.
Tà áo bay trong mắt người đối diện, khói của màu mắt xa xăm. Lại nghĩ đến những chuyến đi về, còn và mất, khói chơi vơi như khói chiều.

Ngồi ở quán Givral, một buổi sáng hay một buổi chiều, ấm áp từng giây gặp gỡ, mắt lạc thần một buổi sang đông.
Ngồi ở quán Givral, chờ gặp gỡ ngày cuối cùng, những bạn bè những bốn vùng chiến thuật, mắt em thăm thẳm xa xôi trong niềm nhung nhớ.

Mai anh đi, mai tôi đi, gặp lại nhé một ngày, hay bàn ghế sẽ trống trơn,
Ly cà phê nhỏ giọt buồn chờ ai nữa hay không, thành phố thơm ngát, vắng bóng người.

Ngồi ở quán Givral, mùa Đông Sàigòn không lạnh lắm, bản luân vũ xếp bút nghiên âm thầm tiếp nối. Mùa Đông lạnh ở nơi rất xa.

Lê Mỹ Hoàn

Ơn Em


Tôi đến thăm chị Dung đang nằm bịnh. Anh Việt mở cửa đón tôi với bộ mặt hốc hác xanh xao tiều tụy. Nhìn chị nằm trên giường gần như bất động, tôi đè nén sự xúc động. Không ai ngờ vợ anh đang còn mạnh mẽ bất ngờ bị ung thư bướu trong đầu thời gian ngắn, nay đành bất lực. Dầu biết luật đời gắn chặt Sinh Lão Bệnh Tử không ai tránh thoát. Nhưng có chia lìa là có đau buồn ngậm ngùi, nhất là với người phụ nữ có quá nhiều đức tánh tốt, người vợ tuyệt vời, người mẹ mà các con xem như thần tượng, người dâu được cả giòng họ nhà chồng khen ngợi, bạn bè thương mến.
Anh Việt mời tôi ra phòng khách uống nước. Ngoài trời đang mưa, bầu trời ủ ê, mây mù trắng xóa càng tăng thêm vẻ ảm đạm. Tôi thả dòng suy nghĩ theo những hạt lệ mưa đang rơi qua khung cửa sổ…

Biết chị Dung từ lúc còn ở VN, thời gian anh Việt đi “cải tạo”, ngày đêm chị phơi mặt với nắng la lết trước chợ Bà Chiểu bán thuốc vấn hơn bảy năm lam lũ, rồi xoay qua xe hủ tiếu. Cơ may sau đó có bà con truyền nghề bán mặt hàng khác khá hơn. Ngày chồng về cùng nhau phụ bán buôn, tuy nguy hiểm nhờ trời cho phất lên như diều gặp gió. Nhưng anh chị vẫn tìm đường vượt biên vì nghĩ đến tương lai con trẻ, và vì không có niềm tin nơi quê hương mình đang ở, lòng canh cánh sợ một ngày nào bị đánh tư bản mại sản, công an có thể ập vào nhà bất cứ lúc nào không hay. Anh chị luôn đề phòng khi nghĩ đến lời Tổng Thống Thiệu “Đừng tin những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn những gì CS làm”, như đã từng nghe “các anh học tập một tuần rồi sẽ được thả về”, và nhiều chuyện khác nữa.

Đi vượt biên không thành, sau đó anh chị cũng qua Mỹ theo diện HO. Hai vợ chồng bắt tay vào đời sống mới ở Mỹ. Chị học tóc, anh học Smog Check, làm thời gian đầu lấy kinh nghiệm rồi mở tiệm. Bước đầu anh kể thật thà: khách bản xứ tới tiệm, anh nói tiếng Mỹ “ù ù cạc cạc”, họ đòi gặp manager, anh nói là tao, họ đòi gặp boss, anh nói ...cũng tao, họ cám ơn bảo sẽ trở lại, nhưng rồi... đi luôn. Vậy mà anh lại thành công hơn 30 năm trên đất Mỹ, bây giờ thuê người làm. Hai vợ chồng siêng năng cần cù nuôi sáu con ăn học đều tốt nghiệp bằng đại học và có công ăn việc làm ổn định.

Còn nhớ những ngày đầu chân ướt chân ráo đến Mỹ, nhờ người bảo trợ thuê căn nhà hai phòng dạng apartment trong khu chung cư. Anh chị nhờ tôi hướng dẫn đi chợ. Tôi lựa dùm mấy vĩ gà, nhưng chị để xuống bảo” gà nằm trong bịch rẻ hơn em ơi”. Tôi tiếp tục bốc cà chua dùm, chị lại nói “chợ Food 4 Less gần nhà mình đang sale giá chỉ bằng 2/3 so ở đây, để chị đi bộ qua mua cũng được. Tôi cảm phục thầm, suy nghĩ: “Đời sống đang sung túc bên VN, vừa qua Mỹ biết chịu cực chịu khổ hà tiện, tính toán tiết kiệm lo xa, so với sự vụng về tính toán của tôi.”

Gia đình anh chị sống chung quanh bà con nhà chồng, mỗi lúc có đám giỗ mời hơn một trăm người chứa trong ngôi phòng apartment chật chội. Bụng mang bầu lớn, chị quơ tay nấu nhanh nhẹn các món mì vịt tiềm, soup, cá hấp, tôm rim..v..v..mặt tươi vui chào đón bà con bên chồng, đến nỗi có ông cậu hơi lẫn lộn: “con giỏi dang, đảm đang biết kính nể bà con nhà chồng, rất xứng đáng là dâu họ Lê” (trong khi chị là dâu họ Nguyễn).

Dần dần anh chị mua được ngôi nhà, nhưng vấn đề mời mọc đám giỗ vẫn duy trì cho đến nay, chị lo liệu một mình vì dâu con đi làm cả. Lần nào dự đám giỗ ba má chồng chị, thức ăn bày ngập mấy bàn một tay chị nấu. Dâu con ở riêng đi làm về muộn, tới đứng hỏi “con làm gì bây giờ hở má?”, chị cười hiền hoà “các con chỉ việc ăn và sau đó dọn dẹp dùm má”. Giờ đây chị ở nhà giữ cháu nội, thương con chị còn lo nấu bới xách, hoặc cuối tuần nấu nồi phở, nồi bún gọi các con về ăn. Các con kể cả dâu rể rất quý chị, sinh nhật mời má ăn nhà hàng, nhưng chị không bao giờ để các con trả tiền. Mấy con trai gặp chị dù lớn vẫn ôm hôn má như đứa trẻ thơ. Nhiều khi tôi đến bắt gặp con trai đầu xay đủ thứ trái cây đem đến má uống, hỏi ra mới biết mỗi chiều đi làm về cháu đều làm công việc đó…

Anh Việt trở lại phòng khách sau khi chăm sóc chị Dung vài việc. Hai anh em cùng nhìn mưa, hình như trời mưa làm tăng thêm nỗi buồn, nỗi uẩn khúc mà lâu nay anh chưa từng nói...Giọng anh trầm xuống, anh kể như đang sống lại với quá khứ …

Ngày xưa đời lính phiêu bạt nơi này chốn nọ, anh được thuyên chuyển đến Cần Thơ đóng quân. Những lần về thành phố thường ghé tiệm ăn ba má chị làm chủ. Gia đình chị thuộc diện giàu có, lúc đó chị ở tuổi thiếu nữ dậy thì đang đi học, anh là khách thường ghé ăn hủ tiếu lâu dần cũng quen mặt với chị Dung, rồi “phải lòng nhau”. Ba chị biết được cấm cản, ông nói “quen lính sớm trở thành goá bụa”. Chị vẫn lén lút hẹn hò đi chơi với anh, ông biết được càng cấm đoán nghiêm khắc dùng những biện pháp mạnh. Chị tức tối đòi tuyệt thực, rồi một hôm mù quáng dùng liều thuốc quyên sinh nhưng số còn lớn được cứu thoát.
Cuối cùng ba má chị phải bằng lòng gả con gái. Anh lại thuyên chuyển về Sài Gòn, dẫn vợ về ở ké nhà chị ruột của anh, thời đó chị ruột cũng nghèo, nhà không có phòng ốc, chỉ che màn làm buồng ngủ. Lúc chị Dung sinh được hai cháu, có khi về ở chung trong căn cứ Quân Sự, đêm ngày bị pháo kích nhảy xuống hầm núp, chị nói “sống chết có nhau”.

Nhờ tài vén khéo dành dụm của chị, cuối cùng cũng tậu được căn nhà. Chị xoay sở buôn bán thêm. Đời lính rày đây mai đó, anh thuyên chuyển xuống căn cứ vùng xa nơi Long Khánh, lúc này chị không thể theo sát anh được vì bận buôn bán. Giai đoạn ấy thường có các nhóm nữ xuống căn cứ anh đóng để ủy lão hoặc ban nhạc tâm lý chiến đến ca hát giúp vui. Anh bị vướng mắc một cô gái đẹp tên H thường xuyên xuống thăm và ở lại cùng anh. Tình cảm kéo dài được thời gian, cô đòi anh giải quyết để cô được làm vợ, anh thẳng thắn nói “ngay từ đầu anh đã cho H biết có gia đình với vợ bốn con, anh không thể bỏ vợ, chính H tự nguyện đến thì phải chấp nhận điều đó thôi”. Cô H đã cuồng loạn tử tự, bạn cô tìm đến nhà cho vợ anh hay tin. Chị biết hoàn cảnh gia đình cô ở tận miền Tây chẳng có ai, nên nuốt nước mắt vào thăm nuôi cô một tuần, cô H hồi tỉnh có vẻ cảm động mến chị, và hứa từ nay sẽ trả lại hạnh phúc cho gia đình chị. Anh về chị chỉ biết khóc nói một câu nhẹ nhàng “Em bỏ danh dự gia đình, bỏ cuộc sống giàu có và hy sinh cả mạng sống vì anh mà…” câu nói đã đâm vào tim anh sự nhói buốt và ray rứt ân hận đến bây giờ.


Tháng 4/1975 VC tràn vào miền Nam, ngày tang thương của đất nước. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng, thời điểm lộn xộn căn thẳng cô H lại về nơi căn cứ Sư Đoàn. Tình hình đang nguy hiểm náo loạn, anh thay bộ lính mặc quần áo thường dân thúc giục cô H về gấp. Không thể dùng xe Jeep, anh lái chiếc Vespa chở cô H về Sài Gòn bị ngăn chận nhiều đoạn, cũng nhờ cô nói chuyện khéo được thoát nhiều lần. Chạy tới Quốc lộ 1 (nay gọi là Cách Mạng Tháng 8) xác lính Nhảy Dù tử tự nằm chết giữa đường la liệt, ngang chợ Hoà Hưng anh thả cô H xuống và chạy về nhà. Tâm tư rối bời, tinh thần đang còn hoãn loạn thì hai hôm sau anh bị bắt đi “cải tạo”. Đầu óc chấn động nhục nhã chuyện mất nước, hối hận dày vò với vợ con, hãi hùng kết quả sự bê tha tình cảm của mình, anh như một cái xác không hồn chẳng còn tha thiết sống nữa.

Anh Việt dừng lại có lẽ để ngăn chận sự xúc động. Hồi lâu lại kể tiếp:
Anh bị tù ngoài Bắc vùng Lào Cai, vì ngành An Ninh nên đã từng bị nhốt xà lim suốt tuần nhiều lần sau màn tra tấn. Còn ngôn từ nào cho đủ để diễn tả những ngày gian khổ lưu đày. Lao động việc nặng, thức ăn thiếu thốn, người suy dinh dưỡng, lúc nào cũng thấy đói khát, thấy con vật nhỏ gì cũng bắt như sâu bọ, rắn rít, bóp mạnh cho chết dúi vào túi quần, chờ lúc vào nhà xí xẹt que xiêm vội vã, chẳng biết còn sống hay đã chín, bỏ vào miệng nhanh chóng vì sợ quản giáo phát hiện. Anh bị nhốt chung với tù hình sự, chúng là những thiếu niên đói quá ăn cắp củ mì, củ khoai bị bắt, nhưng được ra ngoài lao động như đi lấy củi về. Bạn bè chung trại ra đi cũng nhiều lớp vì bịnh hoạn, lớp đói rách suy dinh dưỡng yếu dần.

Lần đầu tiên chị ra thăm anh, mấy trăm người tù ngồi nhìn sững sờ số thực phẩm thăm nuôi. Không thể ngờ tưởng được, người ba vợ luôn ghét anh không thèm nhìn mặt, nay lại đi cùng con gái ra thăm anh. Thức ăn chất mấy bao bố thuê người khiêng phụ vào, chị kể nỗi đoạn trường lết bao nhiêu chặng đường vất vả mới đến được đây. Nhìn chị khác hẳn, tóc hớt cao, mặt mày đen đủi như con trai, chứng tỏ chị lăn lết ngoài chợ đời dữ lắm. Chị cố kể chuyện trên trời dưới đất để đè nén những giọt nước mắt khi nhìn anh tiều tụy. Ba vợ bắt tay anh, ánh mắt lộ vẻ biết thương yêu đứa rể lính VNCH bị tù đày. Tối đó bạn bè cũng được chia sẻ niềm vui chung. Anh dọn dẹp các thứ bới xách cho gọn thì thấy bộ áo Trây-Di, ai ngờ có mớ tiền trong túi, nhờ vậy anh thường nhờ tù hình sự đi lao động bên ngoài mua dùm thứ gì mình cần. Một lần bạn anh bị bệnh kiết lỵ, anh nhờ mua nếp, nấu lén trong lon sữa bò cho bạn ăn, không ngờ ăng-teng báo cáo cán bộ quản giáo, anh bị lôi nhốt vào xà lim một tuần, cũng chân còng trong gian phòng tối om. Một chính sách cai quản tàn nhẫn độc ác không xem ai là con người, phải chăng họ chỉ muốn những người tù chết lần chết mòn khô xương nơi đó. Nếu không có vợ anh thăm nuôi nhiều lần có lẽ anh cũng khô máu đổ bệnh nặng, từng đêm anh đã ứa nước mắt vì thấy mình nhận cái ơn quá lớn của người vợ.

Giờ đây cuộc đời ba chìm bảy nổi đã qua, cũng giống như chị Dung khi ngồi ghế cao, lúc ngồi đòn thấp, xoay chuyển lăn lộn như trái banh. Nếu không có chị thì cuộc đời anh đã bỏ từ lâu, các con anh cũng không được như ngày hôm nay. Anh chỉ biết làm việc, chẳng để ý gì ngoài ba bữa cơm ăn, bao nhiêu tiền bạc cũng như việc sổ sách giấy tờ, cùng việc nhà chị đều quán xuyến hết. Chị động viên các con mua nhà bằng cách cho tiền “down” một số, mua thêm cơ sở khác cho thuê, sắp xếp vén khéo. Anh không hề lái xe, đi đâu có chị làm tài xế, giờ đây anh cảm thấy hụt hẫng vô cùng. Không biết có người vợ hiền nào chăm sóc chồng như chị đối với anh?!! Mỗi trưa chị bới cơm ra shop, hâm nóng để trên khay, bên cạnh món trái cây và cây tăm xỉa răng chu đáo, anh có muốn nói chữ cám ơn triệu lần cũng vẫn chưa đủ và luôn hổ thẹn một thời trăng hoa bay bướm làm chị khổ, đồng thời cũng không dám biết tin tức về cô H, vì nỗi dày vò đã làm hai người đàn bà trong tình yêu dám sống chết vì mình.

Tôi không biết nói gì hơn, lắng nghe câu chuyện với nỗi xúc động vô bờ. Chị sống như thế nào mà để người chồng thương quý tôn thờ, các con yêu mẹ, người người mến phục nể trọng. Còn nhớ hồi xưa nhiều người qua Mỹ trước anh chị Việt đã kể rằng: chú thím Việt tốt bụng rộng rãi lắm, bao nhiêu gia đình HO ngoài làng vào Sài Gòn chờ đi Mỹ, chú thím đều cho tá túc trong nhà, kể cả người không quen đi theo diện con lai, biết người cùng làng cũng mở lòng”.

Mấy năm trước có người anh tên Hưng, anh chị Việt không quen, chỉ nghe qua người bạn thân giới thiệu. Biết được anh bạn này cũng là lính VNCH và ở tù còn lâu hơn anh, nay lại góa vợ, anh chị niềm nở chào đón và đưa đi nhà hàng đãi phủ phê nhiều lần mỗi khi anh Hưng qua chơi. Đây cũng là nét đẹp theo cách nhìn về Chân Thiện Mỹ để mọi người học theo những đức tánh tốt đáng ngưỡng mộ.
- Nãy giờ em ngồi lắng yên nghe anh trang trải nỗi lòng, vậy bây giờ anh trả tiền đi nhé
Anh cười gượng đứng lên vừa đi vào phòng chị vừa nói
- Để anh vào xem chị một tí
Tôi cũng có ý chào về nên muốn vào thăm chị lần nữa trước khi từ biệt. Chị vẫn nằm yên, nhắm mắt. Anh lấy khăn ướt lau nhẹ mặt chị, vừa lau vừa hát nho nhỏ giọng run run cố ru chị:

Tôi muốn phá tan bầu không khí buồn bã, đùa với anh

Ơn em thơ dại từ trời, theo ta xuống biển, vớt đời ta trôi.
Ơn em dáng mộng mưa vời, theo ta lên núi, về đồi yêu thương.
Tạ ơn em, tạ ơn em.
Ơn em tình như mù lòa, như con sâu nhỏ bò qua giấc vùi.
Ơn em hồn sớm ngậm ngùi, kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau.
Tạ ơn em, tạ ơn em (*1)


Tiếng anh nghẹn dần nhưng vẫn cố hát, tôi thấy nơi khóe mắt chị có dòng nước mắt trào ra, có lẽ chị vẫn còn biết nhưng không thể nói được nữa sau lần mổ đầu, các dây thần kinh đã lấp bộ dây nói, và những bộ phận khác. Chị không bị hành hạ bởi những cơn đau đớn vật vã, chị nằm yên như ngủ…

Chào ra về. Trên đường lái xe, tôi nghĩ mông lung “một đời người sống thật xứng, thật đẹp, sống xây dựng cho gia đình, góp phần an lành cho xã hội. Một tấm gương sáng để mình soi, để người chồng hồi tâm sống đúng, sống phải và bù đắp thương yêu với cái “Ơn” quá lớn đối với người vợ lính trong thời chiến tranh, người vợ nuôi chồng bị cộng sản giam tù dài năm.

Chị yên nghỉ nay mai...rồi ai cũng sẽ lần lượt ra đi, chỉ là kẻ trước người sau…
Tôi lái xe, đầu óc miên man nhớ từng chi tiết anh Việt vừa kể, anh nhắc không biết bao nhiêu lần về cái “Ơn sâu” mà cuộc đời anh đã may mắn gặp được chị. Tôi sẽ xa rời người chị rất quý, rất thương nay mai.

Nỗi buồn bao trùm, mắt hơi cay, mưa rơi ngoài trời, mưa rơi trong lòng...Tôi nhẩm lại lời mà hồi nãy anh Việt đã hát cho chị Dung nghe

“Ơn em ngực ngải môi trầm, cho ta cỏ mặn, trăm lần lá ngoan.
Ơn em hơi thoáng chỗ nằm, dấu quanh dấu quẩn nỗi buồn một nơi.
Tạ ơn em, tạ ơn em. ...” (*1)
*** 
Chị Dung đã trút hơi thở cuối cùng ba ngày sau ...chị xứng đáng được vinh danh là người vợ “tù cải tạo “đáng ca tụng. Chị ngủ yên, giấc ngủ nghìn thu...nguyện cầu hương hồn chị sớm được vãng sanh tịnh độ ...

“Về đi lữ khách! đường xa lắm.
Cát bụi sầu thương đã vướng nhiều.
Thanh thản ngủ trong lòng Đạo cả.
Cho hồn thơ ấu được nâng niu.” (*2)

(*1) “Ơn Em” nhạc Từ Công Phụng, thơ Du Tử Lê
(*2) Thơ Sư Ông Thích Nhất Hạnh

Minh Thúy Thành Nội

 

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2024

Phù Vân - Thơ: Trần Quốc Bảo& Phan Khâm - Nhạc: Trần Đại Bản - Ca Sĩ Vân Khánh


Thơ: Trần Quốc Bảo & Phan Khâm
Nhạc: Trần Đại Bản
Ca Sĩ Vân Khánh

Đã Đến Tháng Tư

 

Mới đây đã đến tháng Tư rồi
Buồn bã vào ra đứng lại ngồi
Một thuở quê xưa tràn mạch sống
Mấy thu nơi cũ cạn nguồn vui

Trông trời cánh nhạn nghiêng đầu núi
Nhớ cảnh con thuyền lạc giữa khơi
Ai chở thời gian xa bất tận
Lệ như còn mặn chát bờ môi

Tháng Tư lại đến chân vừa bước
Một chút mưa bay thấm lạnh hồn
Ôi mối sầu em sao mãi ướt
Trên vai anh bao tháng Tư buồn

Tháng Tư tờ lịch vừa mới xé
Mặt đất vẫn còn loang nỗi đau
Biển chẳng nguôi sóng sầu đáy nước
Tình đầu ai mộng gặp kiếp mai.

Lê Mỹ Hoàn


Tháng Tư Trong Nỗi Nhớ



Muốn quên mà vẫn nhớ 
Một thuở đã xa vời 
Kỷ niệm nào sống lại 
Trong ký ức chơi vơi 

Ôi ! tháng Ba gãy súng 
Và tháng Tư tan hàng 
Có triệu người sầu tủi 
Có vạn kẻ huênh hoang 

Tháng Tư vừa gõ cửa 
Mùa Xuân đến mà chi?
Ngậm ngùi trên xứ lạ 
Kẻ ở níu người đi 

Bốn chín năm ly hận 
Nửa thế kỷ tang thương 
Ngày về? ôi xa quá!
Trong nỗi nhớ đoạn trường 

Ta nghe giòng nước chảy 
Suối róc rách bên nhà 
Giòng đời trôi nghiệt ngã 
Kỷ niệm nào phôi pha 

Nắng bên thềm vẫn đổ 
Mùa Xuân lại về đây 
Gượng nghiêng ly rượu đắng 
Chưa cạn hồn đã say…

NHT


Ký Viễn 寄遠 - Đỗ Mục (Vãn Đường)


Tâm Tư Của Bát Sách và Tiểu Đỗ.

Năm 1975, ngày 30 tháng 04, lúc chiều tối, Bát Sách theo tầu hải quân, xuôi dòng Tiền Giang, ra biển. Khi tầu sắp chìm, mọi người được tầu buôn Song Long (Twin Dragon) cứu, chở tới Vọng Các, rồi về Phú San (Busan), Đại Hàn ngày 21/05. BS ở đây 2 tháng, tới Montréal ngày 22/07/1975.

Lúc đó, Bát Sách còn trẻ, độc thân, vui tính, làm đủ thứ nghề để kiếm sống, học bài thi bằng tương đương, và quen một đồng nghiệp đàn anh lớn tuổi là bác sĩ Nguyễn Khắc Định, cùng lớp với anh Nguyễn Tấn Hồng, cựu Tổng Trưởng Thanh Niên hồi ông Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ Tướng. Theo truyền thống y khoa, tôi gọi các đồng nghiệp lớn tuổi bằng anh, xưng em.

Tôi có đến chơi nhà bác sĩ Định nhiều lần, và gặp con gái của ông là Ng N.H, du học ở Mỹ, tiểu bang Oregon, qua thăm cha mẹ. Tôi đã bị mê hoặc bởi chiếc răng khểnh và nụ cười rất tươi đẹp của nàng.

Năm 1976, dù đã đỗ bằng tương đương, nhưng tới tháng 7 năm 1977 tôi mới có chỗ để đi nội trú. Mùa hè năm đó, nàng lại qua chơi, chúng tôi gặp nhau đôi lần, nói chuyện vu vơ, nhưng khi nàng về Mỹ thì tôi bắt đầu thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai kiểu Quang Dũng.

Mùa đông năm 1977, ở Montréal, tuyết rơi nhiều… Một hôm, sau phiên trực, tôi về nhà mệt mỏi rã rời, bỏ ăn, lăn ra ngủ. Đến đêm thức giấc, chợt nhớ tới nàng, lại biết ở Oregon trời không lạnh, nhưng mưa liên miên, bèn làm 4 câu thơ:

Người ở phương trời, mưa mãi rơi,
Nơi đây tuyết trắng phủ ngập trời,
Nửa đêm thức giấc sầu cô quạnh,
Em có khi nào nghĩ đến tôi?

Mùa xuân năm 1978, người đẹp qua chơi, tôi cầu hôn và nàng đồng ý. Chúng tôi làm đám cưới ngày 17/06/1978, 2 tuần trước khi tôi xong nội trú.

Đây là chuyện riêng, đưa lên diễn đàn, BS thấy hơi kỳ, nhưng vì một hôm, vô tình đọc bài KÝ VIỄN của Tiểu Đỗ, tức Đỗ Mục 杜牧 (803-853), sao nó giống y chang tâm tư của mình.

Đỗ lúc đó, chắc ở miền bắc, đêm nằm nghe tuyết rơi, nhớ tới người yêu ở miền nam, mưa tơi bời…

寄遠 杜牧             Ký Viễn (Đỗ Mục)

前山極遠碧雲合, Tiền sơn cực viễn bích vân hợp,
清夜一聲白雪微. Thanh dạ nhất thanh bạch tuyết vi,
欲寄相思千里月, Dục ký tương tư thiên lý nguyệt,
溪邊殘照雨霏霏. Khê biên tàn chiếu vũ phi phi.

Bài này không nhiều chữ khó.

# Câu 2 có 2 chữ thanh, chữ thứ nhất 清 là trong trẻo, chữ thứ 2 聲 là tiếng động.
# Vi 微: là nhỏ, nhẹ.
# Tàn chiếu 殘照:là lúc mặt trời sắp lặn, lúc chiều tà, hoàng hôn.
# Phi Phi 霏霏: viết với bộ vũ, là lã chã, tầm tã, lất phất, tả mưa rơi.

Phỏng dịch:

Gửi Nơi Xa

Bềnh bồng mây biếc trước non côi,
Đêm thanh nghe tuyết trắng nhẹ rơi,
Muốn gửi tương tư trăng vạn dặm,
Mưa khe chiều xuống, rớt tơi bời

Bát Sách.
(ngày 12/02/2024)
***
Gửi Nơi Xa

Thật xa trước núi tụ xanh mây,
Lất phất đêm buồn tuyết trắng bay.
Muốn gửi tương tư trăng vạn dậm,
Về bên bờ suối gió mưa đầy.

Mỹ Ngọc 
Feb. 23/2024.
*** 
Dịch nghĩa

Gửi Người Xa

Mây xanh tụ ở dẫy núi rất xa phía trước,
Trong đêm thanh nghe tuyết trắng rơi nhè nhẹ.
Muốn nhờ vầng trăng cao vạn dặm kia, gởi niềm riêng tới…
... Người ở bên bờ suốt có trăng mờ soi và có mưa rơi lất phất kia.

Dịch thơ

Gửi Người Xa

Đỉnh non xa tắp mây xanh tụ,
Đêm tĩnh chợt nghe tuyết trắng phơi.
Muốn gởi niềm riêng trăng vạn dặm,
Về bên bờ suối có mưa rơi.

Lời bàn:

Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt giản dị, du dương và lãng mạn; ngôn từ gợi những ý súc tích của Đỗ Mục.
Câu 1:
Trên đỉnh núi xa tắp có mây xanh tụ (ám chỉ nơi xa xôi và ấm áp của người yêu),
Câu 2:
Trong một đêm trăng thanh có tuyết trắng lất phất (ám chỉ nơi lạnh lẽo của mình).
Câu 3:
Muốn nhờ vừng trăng ở trên cao gởi niềm tương tư của mình tới…,
Câu 4:
… Bên bờ suối, nơi (đang) có mưa rơi, (cụm từ bạch tuyết vi tương phản với cụm từ vũ phi phi ở câu 2).

Con Cò



Gởi Chốn Xa

Trước núi xa xăm mây biếc phủ
Đêm khuya nghe tiếng tuyết rơi hờ
Tương tư muốn gởi trăng ngàn dặm
Bên suối chiều tà mưa phất phơ?

Mây mù bao phủ núi xa
Đêm khuya nghe tiếng tuyết va kính mờ
Nhớ thương, trăng gởi người mơ
Nụ cười răng khểnh, tóc tơ suối nguồn!

Lộc Bắc

***
Gửi Người Xa

Mây chắn xanh rờn, dáng núi xa
Đêm thanh tuyết trắng bay la đà
Trăng ơi! Cho gửi niềm tâm sự
Bên suối mơ. Chiều. Mưa lướt qua

Kiều Mộng Hà
Austin.4.6.24
***
Gởi Người Xa

Mây xanh lãng đãng quyện quanh non
Đêm xuống tuyết rơi êm ái buông
Muốn gởi qua trăng tình đắm đuối
Ánh dương bên suối hạt mưa buồn

Thanh Vân
***
Gửi Người Xa

Bềnh bồng xa tắp mây xanh
Phất phơ tuyết trắng đêm thanh riêng mình
Nhờ trăng ngàn dặm gửi tình
Đến người bên suối muôn nghìn nhớ nhung.

Kim Oanh
***
Nguyên tác: Phiên âm:

寄遠-杜牧 Ký Viễn - Đỗ Mục

前山極遠碧雲合 Tiền sơn cực viễn bích vân hợp
清夜一聲白雪微 Thanh dạ nhất thanh bạch tuyết vi
欲寄相思千里月 Dục ký tương tư thiên lý nguyệt
溪邊殘照雨霏霏 Khê biên tàn chiếu vũ phi phi
Hán bản của bài thơ được đăng trong các sách đời Thục, Tống, Minh, Thanh:

Tài Điều Tập - Thục - Vi Hộc 才調集-蜀-韋縠
Vạn Thủ Đường Nhân Tuyệt Cú - Tống - Hồng Mại 萬首唐人絕句-宋-洪邁
Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉歷代詩選-明-曹學佺
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐 詩-清-聖祖玄燁

Sách của Huyền Diệp có cho 2 dị bản ở câu 1 và 4.

Ký Viễn là một đề tài rất thơ mộng nên nhiều thi nhân đời Đường, trong đó có Lục Quy Mông 寄遠, Lý Thương Ẩn 寄遠, Bạch Cư Dị 寄遠… đã tham gia làm thơ dưới mục này. Có 46 bài thơ có hai chữ Ký Viễn trong tựa, có 32 bài tựa chỉ có hai chữ Ký Viễn.

Ngoài bài Ký Viễn này (không có tựa như thế trong sách chữ Hoa nào), Lý Bạch có làm một bài Ký Viễn 11 Thủ 寄遠十一首.
Ngoài bài Thu Tễ Ký Viễn, Đỗ Mục còn có 3 bài Ký Viễn: 寄遠 1, 寄遠 2, 寄遠3.

Chú thích:

Bích vân: mây xanh, mây trên bầu trời xanh biếc
Thanh dạ: một đêm yên tĩnh
Tàn: phần còn thừa lại của cái gì đã dùng rồi
Tàn chiếu: lúc mặt trời đã lặn
Phi phi: lả tả, tiếng mưa rơi, nhiều dày dặc…

Dịch nghĩa:

Gởi Người Phương Xa

Xa xa phía trước núi những đám mây xanh biếc hòa quyện với nhau,
Trong đêm yên tĩnh có tiếng vi diệu tuyết trắng rơi.
Muốn gửi mối tình say đắm đến một nơi cách xa ngàn dặm qua ánh trăng,
Bên dòng suối dưới những tia sáng cuối cùng của mặt trời mưa lả tả rơi.

Bình luận:

Bài thất ngôn tứ tuyệt là một tuyệt tác về hình thức, gợi cảm và sâu sắc về ý, trữ tình và lãng mạn. Khi dịch nghĩa cũng như dịch thơ, cần lưu ý về thời lúc và thứ tự hợp lý của các sự việc đã xảy ra. Chiều mây, tối tuyết, khuya trăng, và gần sáng mưa. Chữ tàn chiếu dịch đúng nghĩa là lúc mặt trời sắp lặn, lúc chiều tà, hoàng hôn… e không ổn với thứ tự thời gian trong các câu trước. Quên đi thời điểm trong câu 4 hoặc phỏng dịch hết đêm, gần sáng, bình minh, tia nắng đầu tiên…

To Someone Far-Away by Dù Mù

Blue clouds drifted in the distance in front the mountains,
In the quiet night, only the marvellous sound of falling white snow.
I wanted to send love, through the moon, to a distant place thousands of miles away,
But on the bank of the stream under the last sun rays, it rained heavily.

Phỏng dịch thơ: Gởi Người Phương Xa

Thể thất ngôn: 

Trước núi mây xanh phủ góc trời,
Trong đêm thanh vắng tuyết êm rơi.
Gởi người vạn dặm bao thương nhớ,
Bên suối dưới trăng mưa khắp nơi.

Thể lục bát: 

Mây xanh phủ núi mờ xa,
Trong đêm yên tĩnh trắng ngà tuyết rơi.
Nhớ thương vạn dặm ngươi ơi!
Dưới trăng bên suối mưa nơi giang đầu.

Phí Minh Tâm
***
@ Ý kiến của Lộc Bắc:

Chữ tàn chiếu dịch đúng nghĩa là lúc mặt trời sắp lặn, lúc chiều tà, hoàng hôn… e không ổn với thứ tự thời gian trong các câu trước Pmt

Ba câu đầu đúng theo thứ tự thời gian: lúc trời còn sáng núi mây hòa quyện; đêm yên tĩnh nghe được cả tiếng tuyết rơi; rồi chợt có ý muốn nhờ trăng để gởi tâm tình đến người thương ở phía nam xa ngàn dặm.
Câu 4 tả cảnh mưa bay bay bên suối lúc chiều tà nơi người yêu dấu!

Noi Gương Tiên Tổ

 

Xướng:

Noi Gương Tiên Tổ

Quốc Tổ Hùng Vương của nước ta
Công lao gầy dựng mảnh sơn hà
Trường Sơn bát ngát non hùng vĩ
Đông Hải bao la biển thái hòa
Truyền thống thương nòi thề bảo vệ
Tinh thần chống giặc quyết xông pha
Diên Hồng hào khí còn vang dội
Giữ vững ngàn năm tổ quốc nhà.

Phương Hà
( 16/04/2024 )
***
Họa: 

Quốc Tổ Hùng Vương


Vua Hùng Quốc Tổ của dân ta
Hơn bốn ngàn năm dựng nước nhà
Biển bạc mênh mông dài mút tận
Rừng vàng bát ngát rộng hằng hà
Kiên cường chống giặc không sờn chí
Bất khuất hy sinh chẳng ngại pha
Hào khí anh hùng vang dội mãi
Dẫu lòng mến chuộng cảnh an hoà

songquang
20240416
( Giỗ tổ Hùng Vương 2024)

Nhớ Về Hùng Vương

Hùng Vương, Chư vị Tổ dân ta
Người đã khai sơn, vạch thủy hà.
Tổ Quốc, hai nghìn năm ổn định
Non sông, muôn thuở vững an hòa.
Dẫu rằng Đất Nước nhiều chao đảo
Nên vậy Non Sông lắm lệch pha.
Con cháu nghìn đời còn nhớ Tổ :
Nén hương nghi ngút, tỏa quanh nhà.

​ Danh Hữu kính bái
Chú thích: Lệch pha là không bằng phẳng ổn định (Từ cổ)

***
Gương Tiên Tổ

Nhờ Ngài khởi nghiệp có nay ta
Công đức thời thôi lượng hải hà
Con cháu hôm nay cần đảm lược
Cha ông thuở trước giữ an hòa
Bắc quân khó thắng bao lần bại
Nam tộc càng thua mấy trận pha…
Khí thế diên hồng luôn rạng rỡ
Thượng Kinh trăm họ sống chung nhà

Thái Huy 
4/16/24
***
Giỗ Tổ Hùng Vương ( 10/3 Âm Lịch )…


Hùng Vương Quốc Tổ, cố hương ta
Một cõi giang sơn tới Bắc Hà
Hùng vĩ…”Nam Quan” sinh bất khuất
Thiêng liêng chữ S sống ôn hòa
Con Rồng phong thủy như quan tái
Cháu Lạc từ đường tựa ráng pha
Lập nghiệp tiền nhân tung vó ngựa
Cổ truyền dân tộc chốn quê nhà


Mai Xuân Thanh
Bay Area Thung lũng hoa vàng April 15, 2024
***
Nghiệp Tổ Hùng Vương

Hùng Vương quốc tổ dựng sơn hà
Khởi nghiệp lưu truyền bản Việt ta
Thoát Động Đình xuôi bề vững nước
Nhường Hoa Hạ chọn lối yên nhà
Giang san ổn định ngàn năm giữ
Cuộc chiến sai lầm máu lệ pha
Mở hướng trời nam nương biển cả
Buồn cho số phận chửa quang hoà.

Mai Thắng
240417

Cảm Tác: Gối Mộng Mơ Trăng!

  

Gối Mộng Mơ Trăng!


Đêm đã dần tàn sao trăng còn thức
Rón rén ghé gần khung cửa nhỏ to
“Gối mộng ơi, để thân lạnh co ro
Coi chừng cảm trăng lo không yên giấc”

Gối mộng chợt giật mình.. Ồ là thật!
“Khẽ khàng cười ...Bỡi ngủ gật quên thôi
Cám ơn trăng đêm đã khuya lắm rồi
Ngủ ngon nhé kẽo hao tâm tội lắm!”

Chênh lệnh thời gian giao hòa chầm chậm
Tỉnh giấc nồng còn âm ỉ trong tim
Một ngọt ngào một nhơ nhớ lắng im
Trời hừng sáng đắm chìm lòng thổn thức

Trăng ơi! Có phải chăng là sự thật?!
Cho suốt đời Trăng Mộng mãi trong mơ
Được nghe trăng thì thầm tiếng hẹn chờ
Để gối mộng khép hờ khung cửa sổ!

Kim Oanh
5.4.2024
***
Bài Cảm Tác:

Gối Mộng Mơ Trăng

(Viết Tặng VTS Kim Oanh)

Trăng tò mò nhìn qua khung cửa sổ
Thấy em buồn tiếc nuối một giấc mơ
Thời con gái tâm hồn đang thổn thức
Nhớ và yêu tình thao thức đợi chờ.

Đêm đã thật khuya trăng còn sáng tỏ
Rón rén vén màn cửa sổ hẹn hò
Đêm kỳ diệu em bước vào huyền thoại
Để ước mơ về không phải đắn đo.


Tế Luân
04-09-24


Vùng Bretagne Của Pháp


Bretagne là một vùng đất có phân nửa bờ tiếp xúc với biển Manche và 1/3 bờ tiếp xúc Đại Tây Dương. Vùng đất này, giống như trên nước Anh (đảo lớn nằm phía trên) mưa rất nhiều, từ tháng ba đến tháng chín, mưa đổ xuống bất thường và một chập sau thì nắng lại chan hòa. Nên lúc nào người ta cũng có mang áo mưa và cây dù sẵn trong tay. Nhưng vào mùa đông trời không lạnh lắm, khoảng 7 đến 10*C.

Dân vùng Bretagne có ngôn ngữ riêng không giống tiếng Pháp, trước mỗi cơ sở hành chánh hay bảng chỉ đường đều có ghi 2 thứ tiếng, tiếng Pháp và tiếng breton. Chẳng hạn chữ Bretagne là viết theo tiếng Pháp mà nghĩa theo tiếng breton là Breizh.

Dân Bretagne có nguồn gốc Celtes, người dân celtes vượt biển từ phía Tây Nam vương quốc Anh ở thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 6 đến trú ngụ tại vùng này. Nên dân Bretagne có da rất trắng và tóc vàng. Họ cũng có truyền thống âm nhạc giống nước Anh và nước Tô Cách Lan (Ecosse) dùng kèn "cornemuse" để thổi. Mỗi năm vùng Bretagne có Lễ Hội Âm Nhạc “Festival Interceltique" lôi cuốn rất nhiều du khách đến tham dự.


Bretagne là một vùng có nhiều nông trại nuôi bò,heo, gà và trồng trọt rau cải như choux fleurs, artichauts. Cũng là vùng biển nên hải sản chài lưới chiếm 47% số lượng bài bán trên các chợ tại Pháp. Và kỹ nghệ đồ hộp các loại cá tôm rất phát đạt.

Có lẽ người Việt Nam nào cũng biết beurre Bretel, một loại beurre mặn đóng hộp và khi để chút beurre này vào thức ăn nóng thì mùi thơm nức mũi. Beurre Bretel có từ năm 1871 và liên tiếp hơn 75 năm là hãng sản xuất beurre quan trọng nhất châu Âu, xuất cảng cùng thế giới ngay cả nước Anh cũng nhập cảng beurre Bretel.

Lúc đầu beurre Bretel được làm ở Normandie, vùng lân cận của Bretagne, nhưng sau đó phát triển nhiều và mở thêm hãng sản xuất sang vùng Bretagne ở Rennes… Bây giờ dân Việt Nam ở mọi nơi ghiền beurre Bretel có thể mua qua Amazon … thật là tiện lợi!

Vì là nơi sản xuất beurre nên Bretagne nổi tiếng với các loại bánh ngọt:

**bánh quatre-quarts, tiếng Anh gọi là pound cake (không có để các loại trái cây cắt nhỏ và nho khô). Gọi là quatre-quarts (4 phần) vì 4 loại : bột , đường, beurre, trứng có số lượng bằng nhau.
** bánh far breton, một loại bánh với beurre mặn có để thêm trái mận khô (pruneaux)
** và các loại galettes làm với beurre, rất ngon và nổi tiếng.

Còn một loại bánh đặc biệt của vùng này tên là Kouign amann, bánh với nhiều beurre nướng dòn, ăn béo ngậy mà nhiều du khách phải ghiền.
Ngoài ra đến vùng này phải ăn hải sản và bánh crêpe.


Bretagne có nhiều thành phố nổi tiếng là: Saint Malo, Dinard, Concarneau, Rennes…
Nhưng lần này mời quý thân hữu đến viếng một thành phố nhỏ của vùng Bretagne có tên là Paimpol. Thành phố này có khoảng 7000 cư dân, được xếp hạng 3 năm liên tiếp thứ 370 trên 35 000 thành phố của nước Pháp là nơi “dễ sống”, vì có chất lượng tốt : khí hậu, vật giá, quang cảnh, trung tâm săn sóc sức khỏe.
Paimpol mùa hè du khách đến rất đông. Đi chơi ở thành phố ven biển rất thoải mái, đời sống không quá đắt đỏ, quán ăn ngon mà giá phải chăng, người dân rất hiền lành gặp người lạ cũng chào.


Ngoài khơi của Paimpol có một đảo nhỏ tên là l'Ile de Bréhat, hay l'Ile aux fleurs vì đảo có đầy hoa và cây cảnh xanh tươi nhờ khí hậu ấm áp của dòng nước Gulf Stream

Trên đảo cây cảnh xanh tươi, đời sống êm ả, người dân chỉ đi xe đạp. Có khoảng 400 cư dân sống thường trực nhưng mùa hè hơn 5000 du khách dùng tàu đổ xô đến đảo (từ Paimpol đi tàu ra đảo 10’). Để tránh lượng người quá đông, nhà cầm quyền tại đây giới hạn mỗi ngày chỉ cho 4700 du khách đến viếng đảo mà thôi.


Giới thiệu vùng Bretagne để nếu có cơ hội, quý thân hữu đến viếng vùng này cho biết. 

Thân kính

Thanh Vân
Paris, 15/4/2024

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2024

Đêm Chôn Dầu Vượt Biển - Châu Đình An - Kim Trúc


Sáng Tác: Châu Đình An
Trình Bày: Kim Trúc

Một Nén Hương Lòng

 

Bốn chín năm qua mất nước rồi
Nửa đời xa cách núi sông ơi
Tháng Tư Xuân Lộc hồn chinh chiến
Danh tiếng bao năm thật tuyệt vời.

Đốt nén tâm hương ghi nhớ lại
Bao nhiêu đồng đội đã xương phơi
Một trang hùng sử vang sông núi
Giữ trọn linh hồn đất nước tôi.

Lai Khê tang chế còn in dấu
Tướng tử theo thành bao lệ rơi
Tháng Tư vết thương còn nguyên vẹn
Thắng bại hơn thua tại thế thời.

Nước mất nhà tan đau số phận
Tha hương ngày tháng lạnh lùng trôi
Tâm hương một nén dâng hồn nước
Dâng cả hồn đau mãi nhớ đời.

Maryland,Tháng Tư 2024
Đăng Nguyên


Tháng Tư Buồn

 

Bốn chín năm qua thấm thía buồn
Tháng Tư khắc khoải lệ sầu tuôn
Thương ai gãy súng đành cam khổ
Nhớ kẻ mang gông chẳng chịu luồn
Thành bại anh hùng khôn nói đúng
Nhục vinh quân tử khó bàn suôn
Phận mình dông bão lùa trăm nẻo
Vẫn tưởng quê hương vọng cội nguồn


ThanhSong ntkp
CA. Mar/28/2024

Như Hoa - Like Flowers

(Ảnh: Tác Giả)

Như Hoa

nhà em như hoa em ở trong hoa
lá vờn theo gió mặc áo da trời
thơm tho tóc lụa nắng ngủ ngọn vơi
tay khuya ép mộng nụ óng dâng mời

hồn ta như em ta ở trong em
màu xanh duyên đá rêu vén môi hoà
thân em khép mở dòng tím ngân nga
đón nhau vời vợi cánh ướt ngân hà

nhà em như sao em ở trong ta
thơ sương tâm khói đọng nốt đêm trường
một giây thế kỷ vòng ngất thân thương
bâng khuâng reo hạt tình cuối vô thường


Lưu Nguyễn Đạt
***
Dịch Thơ:

Like Flowers

your house like flowers, you live in flowers
the leaves in the wind wear the sky garment
fragrant silk hair sleeps on the sunshine summit
vesperal fingers squeeze dreams, iridescent buds.

my soul be you, i live in you, in blue grace stones
with moss lifting your peaceful lips
your body vibrates as a purple stream humming
to welcome us with the wet wings of the galaxy.

your house like stars, you live in me, in my poetry
of dew, in my heart of incense the whole night
a second in the century of ecstasy
with the last bead of impermanent love.

Luu Nguyen Dat

Con Đường Văn Nghệ - Nhạc Sĩ Vũ Thành An, Lời Tâm Tình

 
 ( Đỗ Bình,Vũ Thành An)

Thời gian thoáng nhanh như giấc mộng, những kỷ niệm buồn vui cũng phai dần theo năm tháng. Nhiều lúc tôi bỗng thấy đời hoang vu vì bằng hữu cũng đi lần về miền miên viễn! Những dòng kỷ niệm của tôi về nhạc sĩ Vũ Thành An, là người bạn từng có những nhạc phẩm hay mà tôi yêu thích trước năm 1975. Trong số 100 ca khúc của nhạc sĩ Vũ Thành An có thể xem Bài Không Tên Số 8 là giai điệu mở đầu cho những sáng tác sau này của ông. Thuở ấy nốt nhạc được hình thành nhưng chưa có lời, được viết năm 1962, lúc ông đang học lớp đệ nhất ở trường Hưng Đạo ở đường Cống Quỳnh – Sài Gòn. Mãi nhiều năm sau đó ông mới viết lời cho bài hát, nhưng ca khúc này không chất chứa nỗi đau nhân thế, nên không nằm trong phong cách nhạc quen thuộc của Vũ Thành An:

“Chiều thơm du hồn người bềnh bồng Chiều không im gọi người đợi mong Chiều trông cho mềm mây ươm nắng Nắng đợi chiều nắng say Nắng nhuộm chiều hây hây “

Nhạc sĩ Vũ Thành An, tên thật là Vũ Thành, sinh năm 1943 tại huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Cùng gia đình di cư vào Sài gòn 1954, sau đó làm giấy khai sinh là Vũ Thành An. Ở Sài Gòn Vũ Thành An theo học trường tiểu học Nguyễn Tri Phương, sau đó chuyển qua nhiều trường khác như trung học Hồ Ngọc Cẩn, Chu Văn An, Trần Lục, Nguyễn Trãi, Hưng Đạo và đại học Luật khoa, trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức (khóa 25).
Tốt nghiệp trường Đại học Luật khoa Sài gòn năm 1971.

Về Sự Nghiệp:

Trong thời chính quyền VNCH, Vũ Thành An dù tuổi còn trẻ nhưng là một người thành đạt, thăng tiến nhanh trên con đường công danh sự nghiệp lẫn văn nghệ. Năm 1967 ông cộng tác với Đài phát thanh quân đội để thực hiện chương trình Vũ Thành An. Cũng như bao thanh niên cùng thế hệ, nhạc sĩ Vũ Thành An bị động viên vào Trường SQTBTĐ, ra trường phục vụ trong đơn vị Quân Cảnh, rồi thì biệt phái trở lại Đài Phát Thanh Sài Gòn. Năm 1973 mới 30 tuổi đã làm trưởng Ty Dân vận Chiêu hồi tỉnh Gia Định. Sau đó, ông còn trải qua nhiều chức vị khác như : Trưởng khối văn hoá (tương đương Giám đốc khối), Trưởng khối chương trình, Trưởng khối phân phối kế hoạch hệ thống truyền thanh của Đài phát thanh Sài Gòn (1974). Đầu năm 1975 ông qua làm Bộ Thông Tin, rồi trở lại làm tại Đài Phát Thanh Sài Gòn vào những ngày cuối tháng 4. Biến cố 30 tháng tư năm 1975 xảy ra, ông rớt xuống đáy vực thẳm bị đi tù trên 10 năm. Ở trong tù ông vào đạo Công giáo.
Ngày 23/11/2002, Vũ Thành An được phong chức phó tế vĩnh viễn – Một chức phận trong giáo hội công giáo, dưới linh mục, phụ giúp các công việc cho linh mục và nhà thờ như phục vụ bàn thánh, làm việc bác ái, mở quỹ từ thiện giúp đỡ mọi người.
Sáng tác 100 ca khúc gồm nhạc Tình và Thánh ca.

Một thoáng thăng trầm:

Ông tâm sự với tôi, nhờ quen biết với ông Hoàng Đức Nhã, một vị tổng trưởng Dân Vận đương thời, đã tiến cử ông về giữ chức vụ thông tin báo chí. Dù dù lúc ở đỉnh cao ông vẫn cảm thấy cô đơn với chức vụ mới, lạc lõng giữa bằng hữu cũ vì cái buồn vui lộ rõ trên mặt. Lúc đó ông mới chợt hiểu ra thế nào là "đời đá vàng", ông cảm thấy nỗi bẽ bàng trên khuôn mặt người sếp lớn bị mất chức nhưng vẫn chưa đi, còn ông, đến thế chỗ vẫn chưa thực thụ đảm nhận chức vụ. Ông và người sếp lớn đều nhận rõ sự bấp bênh của quyền lực ! Nhạc phẩm Đời Đá Vàng khởi viết từ thời kỳ này vào cuối năm 1974 nhưng sau đó ông trải qua những năm dài tù đày khốn khổ, thấm thía đời viễn xứ. Đêm về, ông nằm kiểm nghiệm lại cuộc đời và nhận thấy thân phận con người như bèo bọt, nổi trôi theo vận nước. Ca khúc Đời Đá Vàng được hoàn tất ở hải ngoại mang một ý nghĩa nhân sinh.

Gặp lại Bạn cũ:

Nhân một buổi đại lễ 2017 Giáo xứ VN Paris có mời vị Phó tế Vũ Thành An từ Mỹ sang đồng tế. Trong dịp này Nhạc sĩ Vũ Thành An muốn đến nhà thăm gia đình chúng tôi. Để chào đón người bạn cũ phương xa đến Paris, tôi mời một số bạn đến họp mặt tâm tình. Trong số người hiện diện hôm nay quen biết cũ, ngoài chúng tôi còn có hai người bạn với nhạc sĩ thuở còn học trò, đó là Nhà Nghiên cứu, biên khảo Phật học Minh Nhật Phạm Văn Đức và TS Võ Hùng Anh. GS Nguyễn Bảo Hưng, GS Trần Văn Cảnh, GS Trương Thị Quỳnh Hạnh, Bác Sĩ-Nhạc Sĩ Phạm Đăng Thiện, LS Dương Minh Châu, Nhà biên khảo Nguyễn Đức Tăng, KS-Nhạc Sĩ Lê Như Quốc Khách, Ca nhạc sĩ Đình Đại.
Tôi có một điều may mắn là các bằng hữu thương mến, dù ở khắp nơi, xa gần đều ghé thăm. Cứ mỗi lần như thế tôi lại mời các bạn đến gặp gỡ trao đổi văn nghệ. Hôm nay hơi đặc biệt, vì ngoài tình bạn văn nghệ còn có tình bạn thuở học trò.Trong lúc uống rượu khai vị, bỗng TS Võ Hùng Anh lên tiếng hỏi lớn làm mọi người đều chú ý. GS Võ Hùng Anh nói:
“An, mày có nhớ tao không? "
Nhạc sĩ Vũ Thành An ngơ ngác nhìn tôi chẳng hiểu gì, có lẽ ông không ngờ trong đám trí thức vẫn có người dùng ngôn ngữ mày tao ! Nhạc sĩ Vũ Thành An chưa kịp trả lời, thì nhà biên khảo, nghiên cứu Phật học Minh Nhật liền hỏi:
“Toi còn nhớ Moi không?"
Tôi biết hai người bạn này muốn trêu chọc Vũ Thành An xem phản ứng người bạn cũ thế nào? Nhưng các bạn hiện diện đều biểu lộ sự ngạc nhiên về cách lên giọng hỏi kém lịch thiệp đó. Riêng Vũ Thành An bị hỏi dồn dập sắc mặt của ông hơi nhạt đi tưởng đang bị kiếm chuyện, nên rất bối rối vì dù sao ông cũng là vị tu sĩ chức thầy Sáu. Tôi biết là nhạc sĩ Vũ Thành An hiểu lầm nên lên tiếng liền:
“ Hai ông này là bạn cùng lớp thời trung học Nguyễn Trãi, sau đó đi du học, hơn nửa thế kỷ mới gặp nhau làm sao nhớ được ! Còn một người nữa là nhà nghiên cứu Hán Nôm Phạm Xuân Hy trước ở Cổng xe lửa Trần Quý Cáp vì tuổi già nên không đến được, có gởi lời thăm anh."

Lúc đó nhạc sĩ Vũ Thành An mới cười lớn và vỗ trán cố nhớ hai người bạn năm xưa đã ngoài tuổi thất thập! Phải nhắc đến nhiều kỷ niệm ông mới nhớ, vì hai người này là học trò ngoan nên lẫn vào số đông. Sau khi nhận ra nhau không khí trong phòng vui nhộn, nhất là Võ Hùng Anh, Minh Nhật và Nhạc sĩ Vũ Thành An xúm xít hỏi han, pha trò dí dỏm y như thuở học trò quên đi tuổi đời.


Mở đầu sinh hoạt văn nghệ, tôi giới thiệu vài nét về ông. Tiếp theo Nhạc sĩ Vũ Thành An với gương mặt trong sáng, ánh mắt hiền hậu, giọng nói trầm ấm và khiêm tốn gửi lời tâm tình:

"Không biết phải dùng chữ gì để diễn tả sự đón tiếp ân cần này. Nhưng được tham dự buổi họp mặt hôm nay với các anh chị, An có cảm giác đặc biệt lắm nên rất là xúc động cảm thấy văn hóa văn nghệ thật là cần thiết. Bởi vì những sinh hoạt văn nghệ cùng nhau ca hát, An đã từ giã nó lâu lắm từ 20 năm rồi. Năm 1995 An ra một CD là "Tình Ơi Giã Biệt", chấm dứt một đoạn đời để đi sang một đoạn đời mới, mình dùng cuộc đời của mình để toàn tâm toàn ý phục vụ cho lý tưởng về tôn giáo mà mình tự tìm thấy khi mình mất hết tất cả. Trong suốt mười năm của người tù, không những mất tất cả về vật chất lẫn tinh thần, mất luôn cả hy vọng. Sống trong tình trạng tuyệt vọng như một cái xác mà phải tồn tại, ở khoảng tối tăm đó thì mình tìm thấy lý tưởng tôn giáo giải thoát. Khi biết mình có thể đi học để làm Phó tế của đạo Công giáo thì mình dứt khoát cuộc đời cũ để làm một cuộc đời mới…".

Sau đó nhạc sĩ Vũ Thành An hát cho nghe bài Đời Đá Vàng và giải thích ca khúc là một tâm tình của tác giả trải dài mấy mươi năm, từ trước năm 1975 và sau này qua nhiều giai đoạn biến đổi của cuộc đời. Đỗ Bình và Lê Như Quốc Khánh đệm đàn. Sau cùng Vũ Thành An hát và tâm tình về Những Bài Không Tên, những bản tình ca vang bóng một thời. Ông kể:

“ Bài “Không Tên Cuối Cùng” được sáng tác liền một mạch trên đoạn đường chưa đầy một cây số từ trường Luật về nhà đường Trần Quý Cáp.”
Nhạc sĩ Lê Như Quốc Khánh trình bày kế tiếp tình khúc Bài Không Tên Số Bảy và Nhạc sĩ Đình Đại với bài “Anh Đến Thăm Em Đêm Ba Mươi”, của Vũ Thành An, thơ Nguyễn Đình Toàn.
Nhạc sĩ Vũ Thành An vì bận việc nên xin về sớm, trước khi từ giã ông hát thêm một sáng tác mới: Hạt Giống Tình. Theo nhạc sĩ, ca khúc không hoàn toàn là bài tình ca về đôi lứa nhưng nó cũng có tình yêu tôn giáo, lấy cảm hứng từ câu thơ của Thi sĩ Đỗ Vẫn Trọn: "Mối tình đầu là hạt giống trăm năm":

"Ai có hỏi xin người hãy nói mối tình đầu là hạt giống trăm năm. Hạt giống tình rơi trên đất tốt sẽ nở tươi thành đóa thi ca. Hạt giống tình ươm trong lòng tôi kết tinh thành một khối long lanh. Bạt sóng xô tình về cuối trùng dương. Lời hát si tình vọng tới mười phương. Nhớ ôi vô cùng làm sao người biết, nỗi đau êm đềm quặn thắt trái tim. Gió đâu rồi hỡi gió bâng khuâng. Thắp cùng người ngọn nến thơm hương. Tôi yêu người thiên thu vĩnh viễn. Xin được gặp chốn ấy bình yên".

Sự đời bả vinh hoa như bóng nước, mây trôi, quyền lực danh vọng thoáng đến rồi đi cũng không giữ được lâu, thời thế thay đổi đã đẩy ông rớt xuống đáy vực thê thảm, biến ông thành một người xa lạ với chính mình, chịu bao sự đắng cay, xa cách của bằng hữu! Trong nhạc phẩm "Xa Lạ" sáng tác sau này của ông đã nói lên tâm sự:

" Lang thang giữa dòng người xa lạ..
Rưng rưng đáy hồn niềm xót xa..
Đời đông đảo quá ngược xuôi vội vã...
Gần bên mà cứ như xa ! "

Trải qua bao gian khổ, sóng gió, bỗng có một ngày nhạc sĩ Vũ Thành An đã tìm được sự bình yên trong tâm hồn qua Đức tin tôn giáo là chấp nhận vào đạo để được vác Thánh giá theo Chúa. Nhưng tâm hồn ông vẫn đầy chất nghệ sĩ nên khi nghĩ đến đời sau linh hồn ông vẫn bay xa bay xa, và cuối cùng về Nước Chúa. Ông giãi bày tâm sự trong ca khúc “Ngày Mai Rồi Mình Cũng Già”:
“Ngày mai rồi mình cũng già, không thể nào níu lại nữa. Ngày xưa như mới hôm qua, một cánh hoa trong cơn phong ba. Thời gian tựa cánh chim bay, tiếng cầu kinh đời đời vẫn vậy. Từ nghìn trùng ta gặp nhau đây, rồi thiên thu mãi mãi sum vầy. Ngày mai rồi mình cũng già, thân thể này sẽ tàn úa. Được thua thì cũng thế thôi, một tiếng yêu xin trao cho nhau. Còn dăm ngày nữa vui chơi, hãy nhìn xem vẻ đẹp cõi đời, được làm người ôi diệu kỳ thay, tạ Ơn Trên cho sống chốn này. Ngày mai rồi mình cũng già, nhưng đời người không thể hết, hồn ta là đốm tinh hoa về viễn phương bay xa.. bay xa.. "

Trong bữa tiệc thân mật tối năm 2017 tại nhà hàng của nhạc sĩ Saxophone Trần Vĩnh, họp mặt các văn nghệ sĩ Paris để chia tay nhạc sĩ Vũ Thành An sáng hôm sau trở về Mỹ. Đêm càng khuya các anh chị còn được nghe nhà thơ Đỗ Bình ngâm thơ, nhạc sĩ Vũ Thành An hát và tâm tình. Những hình ảnh ấy đã để lại ấn tượng thật đẹp đẽ trong lòng các bạn ở Paris.

Mới đây ngày 26 tháng 11 năm 2023, nhạc sĩ Vũ Thành An có đến dự buổi họp mặt những văn nghệ ở Paris tại tư gia ông bà Minh Triết & Mộng Huyền, gồm những khuôn mặt nổi tiếng trong cộng đồng. Trong buổi họp mặt đó nhạc sĩ Vũ Thành An rất vui khi gặp lại tôi, một người bạn cũ, cũng từng quen biết người chồng và người tình đầu của ông. Nhạc sĩ nhắc lại những kỷ niệm về cuộc xưa, và hát liên tục những Bài Không Tên, tôi và nhạc sĩ Đình Đại thay nhau đệm dương cầm cho ông. Hôm đó tôi nhắc lại chuyện cũ, là cách nay nhiều năm nhạc sĩ Vũ Thành An muốn tôi viết lời thơ cho những nhạc phẩm của ông, nhưng tôi từ chối. Hôm nay nhân dịp có nhiều người tôi giải thích lý do: “Cách nay 5 năm, nhạc sĩ Vũ Thành An điện thư và phôn cho tôi muốn tôi cùng ông chung tác phẩm, tôi viết lời còn ông viết nhạc. Tôi phôn sang Mỹ cảm ơn lời đề nghị đó, nhưng viết lời cho nhạc của ông thì quả rất khó. Vì trong vườn nhạc Việt Nam những giai điệu và lời nhạc của Vũ Thành An, Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Phạm Mạnh Cương, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên… đã thấm sâu vào tâm hồn của tôi từ thuở còn trẻ. Ca từ và giai điệu của nhạc sĩ Vũ Thành An có một chỗ đứng riêng, cho dù ông có viết dòng nhạc mới thì phong cách nhạc vẫn là Vũ Thành An. Điều đó đã tạo cho ông chỗ đứng riêng biệt trong dòng nhạc Việt mà không lẫn vào đám đông của trào lưu sáng tác nhạc hôm nay. Bài Tình Khúc Thứ Nhất, thơ của Nguyễn Đình Toàn, ông đã phổ tuyệt vời, giai điệu đi vào lời thơ hòa theo cung bậc riêng tạo nên những biến cung chảy theo dòng nhạc FA DO, nếu dạo trên guitare hay piano sẽ thành khúc nhạc không lời. Những ca khúc Không Tên biểu trưng cho dòng nhạc Vũ Thành An, nó đã đi sâu trong lòng người do đó tôi không dám viết lời trong air nhạc của ông ! Vì nếu tôi có viết, cho dù thật bay bướm lãng mạn thì cũng bị âm hưởng từ những ca khúc cũ mà thôi, như thế sẽ làm hỏng cái đẹp xưa trong hồn tôi ! Hơn nữa lời thơ của tôi ngôn từ quá lãng mạn, đôi khi còn hư cấu để thêm màu sắc cho thơ, do đó sẽ không hợp với ông bây giờ là một tu sĩ. Tôi sợ người đời hiểu sai về ông ! Nếu thơ của tôi ghép vào thì cũng chỉ là chắp nối giữa hai tâm hồn có những nỗi niềm riêng. Vì tôn trọng âm nhạc và tôn trọng khoảng trời riêng rực rỡ của nhạc sĩ Vũ Thành An tôi nên không dám đặt lời nhạc. "

Nhạc sĩ Vũ Thành An nghe xong nắm hai tay tôi xúc động!

Những Tác phẩm âm nhạc và Tình Duyên:

Từ ngày vào miền Nam năm 1954 cho đến tháng tư năm 1975, đời sống và sự nghiệp công danh của Vũ Thành An như một dòng sông chảy êm đềm chưa dậy sóng, nhưng ông lại lận đận đường tình duyên. Người nhạc sĩ tài danh và đa tình ấy đã trải qua nhiều mối tình đẹp nhưng dang dở. Phải chăng đó lại là chất liệu, nguồn cảm hứng giúp ông sáng tác những ca khúc cho mình cho đời ?
Những Ca khúc mang dấu ấn:
Nhạc sĩ Vũ Thành An cho tôi biết ông bắt đầu sáng tác vào đầu năm 1960 nhưng mới ở dạng bản thảo nên không phổ biến. Sau đó ông vẫn tiếp tục sáng tác. Cuối năm 1963, Vũ Thành An được nhận vào làm phóng viên tại Đài Phát Thanh Sài Gòn, phụ trách chương trình sinh viên, phát sóng hàng tuần trên đài. Thời gian này Vũ Thành An đã gặp mối tình đầu, và tình yêu nồng thắm đó đã trở thành nguồn cảm hứng để nhạc sĩ viết những ca khúc đầu tiên trong sự nghiệp : Tình Khúc Thứ Nhất, Em Đến Thăm Anh Đêm 30, Bài Không Tên Cuối Cùng.

Năm 1965 ông là biên tập viên đài phát thanh Sài Gòn cùng với nhà thơ, nhà văn Nguyễn Đình Toàn, người sáng lập ra chương trình nhạc chủ đề trên đài phát thanh Sài Gòn vào mỗi tối thứ năm. Những ca khúc Không Tên được phát trên đài phát thanh phổ biến khắp nơi, nên được công chúng biết và yêu mến. Tên ông sáng chói trong làng âm nhạc từ đó. Vào thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, những nhạc sĩ viết về đề tài tình yêu lứa đôi được công chúng yêu mến như : Phạm Duy, Hoàng Trọng, Dương Thiệu Tước, Hoàng Thi Thơ, Văn Phụng, Nguyễn Thiện Tơ, Châu Kỳ, Y Vân, Lâm Tuyền, Khánh Băng, Minh Kỳ, Lê Dinh, Nhật Bằng, Nguyễn Văn Đông, Phạm Mạnh Cương, Phạm Đình Chương, Lam Phương, Mạnh Phát, Trúc Phương, Anh Bằng, Trịnh Công Sơn, Cung Tiến, Thanh Trang, Thanh Sơn, Trần Thiện Thanh, Trầm Tử Thiêng, Huỳnh Anh, Nhật Ngân, Trường Hải, Đỗ Lễ, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương, Trường Sa, Ngô Thụy Miên…

Bài Tình Khúc Thứ Nhất của Vũ Thành An được viết theo yêu cầu của người yêu, để kỷ niệm mối tình đầu khi hai trái tim đang yêu nhau tha thiết hòa cùng nhịp. Vũ Thành An kể lại rằng:“ lúc đó cô người yêu của tôi muốn tôi viết một ca khúc để kỷ niệm cuộc gặp gỡ của 2 người. Vào một buổi chiều mùa xuân năm 1965, trên chuyến xe từ Vũng Tàu về Sài Gòn, một dòng âm thanh vang lên trong đầu, tôi viết vội giai điệu với câu đầu tiên là: Bài ca anh hứa cho em bấy lâu nay vẫn còn dang dở”…
Đây là ca khúc phổ thơ hay và độc đáo nhất của Vũ Thành An vì giai điệu và cấu trúc nhạc cầu kỳ rất mới trong dòng nhạc trữ tình thuở đó.. Sáng tác dựa theo lối guitare bán cổ điển Tây phương rất phức tạp. Bài Tình Khúc Thứ Nhất được nhạc sĩ Vũ Thành An viết nhạc trước dựa trên giai điệu mềm mại, rất lãng mạn, chủ âm Mi thứ, một cung bậc trong guitare để diễn tả nỗi buồn nhẹ nhàng, sâu lắng với hành thể Ad Libitum tự do, tùy ý. Sau khi soạn xong nhạc, Vũ Thành An đã mang cho nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn viết lời. Thuở đó nhà thơ Nguyễn Đình Toàn theo khuynh hướng thơ tự do, ngôn ngữ thơ kỳ bí, độc đáo, ý thơ hay, và phần thanh âm trầm bổng nên rất hợp để làm ca từ cho nhạc. Vì gần gũi Vũ Thành An nên ông hiểu tâm tình người bạn trẻ. Khi viết lời ông dựa đã vào lời và ý của Vũ Thành An cho ca khúc, và cũng mượn ẩn dụ chuyện tình dang dở để diễn tả tâm tình của mình với quê hương đất Bắc bằng ngôn từ trầm bổng mang chất triết lý, đượm màu sắc hình tượng hội họa nên ca từ trong ca khúc Tình Khúc Thứ Nhất thành một bài thơ độc đáo.

“Thần tiên gãy cánh đêm xuân bước lạc sa xuống trần, thành tình nhân đứng giữa trời không khóc mộng thiên đường. Ngày về quê xa lắc lê thê, trót nghe theo lời u mê. Làm tình nhân nuôi cánh bay đi, thương còn dăm phút vui trần thế. ”


Nhà thơ Nguyễn Đình Toàn cũng chính là người hát lần đầu tiên ca khúc này trong chương trình Văn học nghệ thuật của Đài phát thanh Sài Gòn. Bài Tình Khúc Thứ Nhất, ý nhạc đẹp như thơ, ca từ đãi lọc lóng lánh màu sắc. Do đó thơ nhạc hòa quyện nhau nên bài ca được chắp cánh bay cao và xa, ra mãi hải ngoại đã hơn nửa thế kỷ vẫn còn thấm trong lòng giới mộ điệu. Lời bài Tình Khúc Thứ Nhất rất lãng mạn và trừu tượng. Trong đó có những câu nửa trần nửa thần tiên. Xin chép nguyên bài:
“Tình vui theo gió mây trôi, ý sầu mưa xuống đời.
Lệ rơi lấp mấy tuổi tôi, mấy tuổi xa người. Ngày thần tiên em bước lên ngôi đã nghe son vàng tả tơi. Trầm mình trong hương đốt hơi bay mong tìm ra phút sum vầy. Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai, những cánh dơi lẻ loi mù trong bóng đêm dài. Lời nào em không nói em ơi, tình nào không gian dối? Xin yêu nhau như thời gian làm giông bão ..... mê say. Lá thốt lên lời cây, gió lú đưa đường mây. Có yêu xin những ngày thơ ngây. Lúc mắt chưa nhạt phai, lúc tóc chưa đổi thay, lúc môi chưa biết dối cho lời.
Tình vui trong phút giây thôi, ý sầu nuôi suốt đời. Thì xin giữ lấy niềm tin, dẫu mộng không bền. Dù Trời đem cay đắng gieo thêm cũng xin đón chờ bình yên. Vì còn đây câu nói yêu em, âm thầm soi lối vui tìm đến. Thần tiên gãy cánh đêm xuân, bước lạc sa xuống trần. Thành tình nhân đứng giữa trời không khóc mộng thiên đường. Ngày về quê xa lắc lê thê trót nghe theo lời u mê. Làm tình yêu nuôi cánh bay đi, nhưng còn phút vui .......trần thế ” (Nguyễn Đình Toàn).

Có lẽ tâm hồn thi nhân bồng bềnh, phiêu du trong cõi đời nên vẫn ca ngợi tình yêu lứa đôi cho dù bị dang dở! Mặc dù ôm những nỗi niềm xót xa nhưng thi sĩ vẫn thả hồn thăng hoa nỗi đau đó thành thú yêu đương, để cảm tác những vần thơ mang ý đẹp về cuộc tình. Nhưng đối với nhạc sĩ Vũ Thành An mối tình đầu như chuyện thần tiên, quá si nặng, nên khi mất tình yêu nhạc sĩ cảm thấy cuộc đời bị hụt hẫng.

Ông viết trong hồi ký :“Em yêu dấu, Em bỏ đi làm anh hụt hẫng, nhất là không còn biết tin vào ai nữa. Anh đã tin những lời em hứa, thế rồi em bỏ đi. Anh trở thành kẻ mất đức tin không còn biết bấu víu vào đâu. Đức tin là quan trọng nhất của một đời người. Chính đức tin sẽ cho ta hy vọng, có thể giúp ta chịu đựng được những điều phi thường và vượt lên khỏi sự bình thường. Mất đức tin ta sẽ rơi xuống hố thẳm của tuyệt vọng. …Bây giờ, sau 50 năm hồi tưởng lại, anh vẫn thấy tình yêu anh dành cho em là có thật. Tình yêu đó đã theo anh trên mọi nẻo đường. Tình yêu ấy đã cho anh bay vút lên trời cao và rớt chúi xuống vực sâu. Một lần tình cờ anh được gặp lại em trong chuyến đi sang Paris cùng với Du Tử Lê và Từ Công Phụng năm 1998, tim anh như vỡ trong lồng ngực. Đó có phải là bằng chứng của mối chân tình ?”

Gặp lại Người Tình Xưa:


Đại văn hào Benjamin Disraeli (1804-1881) người Anh đã nói về mối tình đầu:“Sự thần diệu của mối tình đầu, đó là không biết nó có thể chấm dứt một ngày nào đó.”

Có lẽ ca khúc “Một Lần Nào Cho Tôi Gặp Lại Em” của nhạc sĩ Vũ Thành An viết về mối tình đầu đã khắc sâu trong tim là ca khúc trữ tình nhất. Ca khúc đẹp từ giai điệu đến lời. Nghe chính tác giả trình bày thì mới cảm thấy nỗi nhớ nhung da diết thấm vào trong từng ca từ, giai điệu:

" Một lần nào cho tôi gặp lại em
Đôi môi đó đêm nay còn nồng
Một lần nào cho tôi gặp lại em
Rồi thiên thu sẽ là nhung nhớ.
Dòng đời nào đưa em đi về đâu
Sao không thấy qua đây một lần
Một lần nào cho tôi gặp lại em
Những bến bờ xưa cũ đã mờ…. "

Hè năm 1998 trong một sinh hoạt văn học nghệ thuật ở Paris ra mắt tác phẩm của nhà thơ Du Tử Lê và nhạc sĩ Từ Công Phụng. Hôm đó có sự tham dự của nhạc sĩ Vũ Thành An từ Mỹ và nhạc sĩ Miên Đức Thắng từ Đức quốc sang. Nhạc sĩ Vũ Thành An ngày đó chưa đi tu để làm Thầy Sáu, ông không hề biết trong số khách tham dự hôm nay có người tình đầu của ông. Ban tổ chức mời nhạc sĩ Vũ Thành An lên trình bày tác phẩm. Hôm đó tôi giới thiệu thi phẩm của thi sĩ Du Tử Lê nên ngồi hàng đầu để dễ lên sân khấu. Khi nhạc sĩ Vũ Thành An lên trình bày ca khúc bài Không Tên Cuối Cùng với chất giống hay, rất truyền cảm tha thiết và buồn rười rượi.
Trong lúc trình bày ca khúc ông nhìn tôi, còn tôi quay sang bà bạn ngồi bên cạnh để chia sẻ lời ca. Bà là một vị cựu giáo chức, chồng bà ngồi ở hàng ghế sau. Tôi thấy đôi mắt của bà đẫm lệ! Bà chính là nàng thơ, cảm hứng âm nhạc mà một đời Vũ Thành An mang mối tình tuyệt vọng! Lời mới của ca khúc Bài Không Tên Cuối Cùng trái ngược với lời cũ đầy trách móc, oán hận:
“Này em hỡi, con đường em đi đó, con đường em theo đó đúng hay sao em? Mưa bên chồng có làm em khóc; có làm em nhớ những khi mình mặn nồng ?“…

Trong lúc sáng tác trong cơn hờn giận, có đôi từ đã cường điệu để cho ý đậm đà hợp vần, hợp ý nhạc nên lời ca trở nên nặng trĩu tiếng đời, sau này nhạc sĩ đã viết thêm lời hai cho ca khúc, đã hát với tiếng lòng trước người yêu cũ, thì đó là lời chân thành tha thiết đầy ý nghĩa như một lời giải kết. Vì bấy lâu những ca khúc không Tên như lời oán trách cũng làm giao động đến tâm hồn nàng, và ông sửa lại:
“Này em hỡi, con đường em đi đó, con đường em theo đó, Đúng đấy em ơi !.... .”


Sau buổi sinh hoạt đó nhạc sĩ Vũ Thành An cùng hai vợ chồng bà nhà giáo đó đi ăn cơm với nhau vui vẻ trong nhà hàng của chính bà tại Paris.
Như thế Vũ Thành An đã trả xong món nợ tình văn nghệ mà xua tan đi tiếng hờn. Từ đó ông thong dong bước vào trường tu theo con đường bác ái vị tha.
Nhạc sĩ Vũ Thành An tâm sự với bằng hữu và viết: “Em đã từng muốn anh ghi lại kỷ niệm cho cuộc tình chúng mình. Và anh đã viết nhưng chưa bao giờ nghĩ rằng “Bài Không Tên Cuối Cùng” anh đã viết ra trong sự thảng thốt khi em đột ngột bỏ anh đi, sau đó lại được phổ biến rộng như thế! Chắc chắn những lời ca đó đã gây ảnh hưởng đến em. Anh hoàn toàn không muốn như vậy. 25 năm sau, năm 1991, anh đã mừng là có dịp để viết lại những điều anh không nên viết. Anh vẫn mong một lần hỏi chuyện em: Nhớ rất nhiều câu chuyện đó. Ngỡ như là ngày hôm qua Ôi ước ao có một ngày Gặp lại em hỏi chuyện em lần cuối cùng Vẫn con đường, con đường cũ Vẫn ngôi trường, ngôi trường xưa Mưa vẫn bay như hôm nào Người ở đâu mình ở đây bạc mái đầu Này em hỡi con đường em đi đó, con đường em theo đó Chắc qua bao lênh đênh Bao gập ghềnh có làm héo hắt Có dập tắt mất nét tươi nhuận nụ cười? Này em hỡi con đường em đi đó, Con đường em theo đó đúng đấy em ơi Nếu chúng mình có thành đôi lứa Chắc gì ta đã thoát ra đời khổ đau? Nếu không còn được gặp nữa Giữ cho trọn ân tình xưa xin gửi em lời cầu nguyện Được bình yên được bình yên về cuối đời…”
Sau bao năm dài xa cách họ đã gặp lại nhau trên xứ người, mối tình cũ đã cuốn trôi theo thời gian của dòng đời. Họ vẫn trân trọng giữ mãi tình bạn quý, nhưng mối tình đầu vẫn ghi khắc trong tim người nhạc sĩ đến tuổi bạc đầu.
Tình dang dở qua thi ca âm nhạc:
Thơ là là tiếng nói của tâm hồn, là những bài hùng ca sông núi bất tử, là thông điệp của tình yêu, của những mối tình dang dở, nhất là tuổi học trò. Bài thơ Ngập Ngừng của thi sĩ Hồ Dzếnh vang bóng một thời làm rung động bao con tim đang yêu, đã có câu:
“Tình mất vui khi đã vẹn câu thề,
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở.."
( Hồ Dzếnh)
Bài thơ được phổ biến rộng rãi trong công chúng nên hầu hết mọi người đều thuộc, và đã đổi lại để dễ nhớ:
“Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở,
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề.”

Bài thơ còn được phổ thành nhạc, lấy ý cho bài vọng cổ, lời thoại cho tuồng cải lương xã hội. Nói về những chuyện tình dang dở, ca dao Việt Nam có câu:
“Tóc mai sợi ngắn sợi dài,
Lấy nhau chẳng được thương hoài ngàn năm.”

Những Ca khúc tự tình tiêu biểu thập niên 60, 70:

Trong lãnh vực âm nhạc Vào những năm cuối thập niên 60 đầu những năm 70, những bài hát Không Tên của nhạc sĩ Vũ Thành An như làn hương thơm cỏ lạ đã đến với công chúng khắp nơi qua đài phát thanh, cũng như các phòng trà, các quán cà phê nhạc hay những quán bên đường. Vào thập niên 60, 70 là giai đoạn chiến tranh đang khốc liệt lan tỏa khắp nơi trên quê hương, những sáng tác nghệ thuật thuở ấy bị ảnh hưởng của chiến tranh nên có khuynh hướng ca ngợi những mối tình lứa đôi của người trai thời chiến giã từ người yêu để lên đường ra tiền tuyến. Những bài Không Tên của Vũ Thành An xuất hiện thuần túy trữ tình không đượm màu sắc chiến chinh. Dòng nhạc mang sắc thái riêng, giai điệu buồn man mác, ca từ rất tha thiết ẩn chứa những giọt lệ tình đắm đuối, lẫn oán hận về những chuyện tình dang dở, nhưng đượm chút triết lý. Khác với dòng nhạc trữ tình của các nhạc sĩ Phạm Duy, Phạm Đình Chương (Xóm Đêm), Đan Thọ & Đinh Hùng (Chiều Tím), Văn Phụng (Suối tóc), Lê Hoàng Long(Gợi Giấc Mơ Xưa), Y Vân (Ngăn cách), Đỗ Lễ (Sang Ngang), Thanh Tranh (Duyên Thề), Trịnh Công Sơn (Diễm Xưa), Phạm Mạnh Cương (Thương Hoài Ngàn Năm), Cung Tiến (Hương Xưa), Hoàng Nguyên (Ai Lên Xứ Hoa Đào), Vũ Đức Nghiêm (Gọi Người Yêu Dấu)…vv…

Những ca khúc tình yêu lứa đôi thời chiến thuở đó thịnh hành, như:

"Sương Lạnh Chiều Đông" của Mạnh Phát, " Nỗi Buồn Gác Trọ " của Hoài Linh & Mạnh Phát, " Chiều Mưa Biên Giới, Hàng hàng Lớp Lớp " của Nguyễn Văn Đông, " Tàu Đêm Năm Cũ " của Trúc Phương, “Chuyến Đò Vĩ Tuyến”, “Tình Anh Lính Chiến” của Làm Phương, " Cánh Thiệp Đầu Xuân" của Minh Kỳ, " Nếu Vắng Anh" của Anh Bằng, " Đám Cưới Đầu Xuân " của Trần Thiện Thanh, " Vì sao Lạc" của Anh Việt Thu,"Những Đóm Mắt Hỏa Châu" của Hàn Châu, " Qua Cơn Mê " của Nhật Ngân … .”

Những ca khúc tình yêu lứa đôi thời Tiền chiến như: “Thiên Thai" của Văn Cao, "Biệt Ly" của Doãn Mẫn, "Cô Láng Giềng" của Hoàng Quý, "Nỗi Lòng" của Nguyễn Văn Khánh, "Dư Âm" của Nguyễn Văn Tý, "Trăng Mờ Bên Suối" của Lê Mộng Nguyên, "Thu Quyến Rũ" của Đoàn Chuẩn Từ Linh, "Hướng Về Hà Nội" của Hoàng Dương, "Em Tôi" của Lê Trạch Lựu, "Bến Xuân" của Phạm Duy, "Bóng Chiều Xưa" của Ngọc Bích, "Nhạc Sầu Tương Tư", “Dừng Bước Giang Hồ” của Hoàng Trọng, "Hoa Soan Bên Thềm Cũ" của Tuấn Khánh, "Dạ Khúc" của Nguyễn Văn Quỳ,“Dạ Khúc" của Nguyễn Mỹ Ca,“Người Em Nhỏ" của Nguyễn Hiền, "Nắng Chiều” của Lê Trọng Nguyễn, "Giấc Mơ Hồi Hương" của Vũ Thành ...vv…đã thấm vào tâm hồn công chúng miền Nam.

Những Bài Không Tên

Bài Không Tên Cuối Cùng đánh dấu sự chấm dứt của mối tình đầu, nhưng hình bóng người tình vẫn luôn mãi ở bên ông. Sau cơn đau tình ái tâm hồn nhạc sĩ Vũ Thành An trở lại với những cảm hứng sáng tác tiếp theo Tình Khúc Thứ Nhất và Bài Không Tên Cuối Cùng là những bài tình ca Không Tên số 2,3,4,5,6,7…
Năm 1967, ông viết ca khúc Bài Không Tên Số 2 để ghi dấu cuộc tình thứ 2 của mình, ông viết: “Đầu năm 1967, một ngày thật trống rỗng và ảm đạm, định mệnh đã cho anh được gặp em. Như một tia nắng ấm cuối Đông, em đã sưởi ấm tâm hồn anh ngay buổi đầu gặp mặt”
Đầu năm 1967, Vũ Thành An yêu một cô nữ sinh Trưng Vương xinh đẹp con nhà giàu, mới đậu tú tài. Cuộc tình rất lãng mạng, say đắm nhưng lại dễ tan vì chàng sinh viên sĩ quan Thủ Đức kiêm nhạc sĩ chưa phải là tiêu chuẩn người lý tưởng để gia đình nàng chọn lựa cho con gái, vì thân phận người lính thời chiến sinh tử rất bấp bênh. Do đó nàng phải theo lệnh gia đình đi lấy chồng. Nhạc sĩ nghèo một lần nữa nhìn người con gái nhà giàu như cánh chim trời bay đi!
“ Lòng người như lá úa, trong cơn mưa chiều. Nhiều cơn gió cuốn, xoay xoay trong hồn, và cơn đau này vẫn còn đây….Xin một lần siết tay nhau, một lần cuối cho nhau. Xin một lần vẫy tay chào, ôi dòng đời đó, cuốn người theo.”

Bài không Tên số 3

Năm 1966, thuở ấy Vũ Thành An đang say đắm mối tình đầu nên khi gặp em người bạn là cô nữ sinh Đà Lạt ông chỉ xem cô như là em gái, dù ông biết rằng cô yêu mình tha thiết. Đến năm 1967 Khi viết bài không Tên số 3 cho cô, lúc đó cô đã trở thành người tình thân thiết, nhưng trong hồn nhạc sĩ vẫn còn vương vấn về mối tình tan vỡ. Do đó giai điệu ca khúc buồn như ai oán. Điểm đặc biệt là lời bài không Tên số 3 ông cùng người yêu hợp soạn. Ông viết: “Chúng ta đã có thời gian bên nhau thân thiết nhưng chúng ta xa cũng lâu rồi. Anh còn nhớ Em đã cùng anh soạn lời cho Bài Không Tên Số 3. Anh đã viết : Yêu nhau cho nhau nụ cười Thương nhau cho nhau cuộc đời Mà đời đâu biết đợi Để tình nhân kết đôi… Và Em đã viết: Để rồi đánh mất nhau Tay buông lơi tình mềm Chân không theo tình bền Chẳng giữ được nhau…"

Bài không Tên số 4:

Ngoài những ca khúc không tên diễn tả những cuộc tình dang dở của mình, nhạc sĩ Vũ Thành An còn gởi chút tình cho tha nhân về thân phận con người trong cõi vô thường. Bài Không Tên Số 4, lời ca và giai điệu ông viết cho một người phụ nữ mà ông rất tha thiết, đó là một đồng nghiệp phụ trách phần thu âm cho chương trình Nhạc Chủ Đề phát trên đài phát thanh ngày đó. Ông viết trong hồi ký:

“Khởi đầu anh rất quý trọng em như một đồng nghiệp giỏi giang. Sau đó từ từ thân hơn, trở thành bạn bè. Chúng ta đã có những buổi hẹn để chuyện trò. Mỗi lần gặp anh là em khóc như mưa, khóc để trút hết những đau buồn em đang mang…"

Lời ca khúc:

“Khóc cho vơi đi những nhục hình, nói cho quên đi những tội tình. Đời con gái cũng cần dĩ vãng, mà em tôi chỉ còn tương lai. Mai về sau nước mắt có cạn, khi xa đời thương cho đàn con, triệu người quen, có mấy người thân, khi lìa trần có mấy người đưa ?!"

Bài không Tên số 5:

Năm 1969, ông gặp một nữ sinh Nguyễn Thị Thoa, tính tình hiền lành, đôn hậu. Cô vừa đi học vừa đi làm để phụ giúp gia đình cô khó khăn. Sau thời gian tìm hiểu và yêu nhau ông quyết định cưới cô làm vợ cùng nương tựa và sẻ chia với nhau.

.Nhạc sĩ Vũ Thành An viết lại trong hồi ký:

“Khi có em bên cạnh, anh cảm thấy bình yên. Anh đã quá mệt mỏi với những cuộc tình đã qua, cho nên muốn đến với em và cùng em xây dựng gia đình. Hình ảnh em ra khỏi lớp học ban đêm trong chiếc áo dài ngày đó, bây giờ anh vẫn còn nhớ như in. Anh hiểu vì sao anh đã si mê em. Chúng ta quen nhau và rồi em đã đồng ý về với anh để cùng “chia nhau nghèo khó, quên lo tương lai mịt mờ”.

Bài Không Tên Số 5 nhạc sĩ Vũ Thành An viết tặng người vợ, trong đó có những ca từ:“Hãy đến chia nhau nghèo khó Quên lo tương lai mịt mờ Hãy cố yêu người mà sống Lâu rồi đời mình cũng qua ....” Trong thời gian mới lập gia đình ông cảm thấy sự nghiệp của hai vợ chồng chưa có gì, nên e ngại tương lai sẽ mịt mờ, nhưng chỉ vài năm sau con đường công danh của Vũ Thành An thăng tiến rất nhanh. Hơn nữa vào thời điểm đó ông đang làm quan nên đồng lương ổn định, nhất là ông lại ở thành phố nên không sợ súng đạn. Phải chăng từ “mịt mờ” ở đây ông nghĩ đến người lính ngoài mặt trận sinh tử rất mong manh!
Biến cố chính trị 30 tháng tư năm 1975 đã xảy ra làm thay đổi chính quyền miền Nam, khiến cho bao gia đình thuộc chế độ cũ VNCH bị tan tác phân ly. Cuộc sống đang hạnh phúc của gia đình nhạc sĩ Vũ Thành An cũng cùng trong số phận. Ông bị đi tù hơn 10 năm. Khoảng thời gian này đời sống kinh tế cả nước bị nghèo đói cùng cực. Vợ ông ở nhà phải tần tảo nuôi con và chờ đợi ngày ông trở về, nhưng ông vẫn đi biền biệt ! 1984 ở trại Nam Hà ông đã ký giấy ly hôn để vợ hoàn tất thủ tục đưa con sang định cư ở Hoa Kỳ. Vợ ông vừa đi chưa được bao lâu thì năm 1985, Vũ Thành An được ra tù. Trong hồi ký, nhạc sĩ đã nhắc đến người vợ bằng những lời tri ân và trân trọng: “Anh cảm phục em mấy mươi năm qua đã một mình nuôi dạy con trai chúng ta khôn lớn và nên người. Xin cho em cuối đời được bình yên”.
Năm 1985 ông mới ra tù, ngỡ ngàng trước sự thay đổi của xã hội mới. Vợ cũ ly hôn đã cùng con sang định cư ở Mỹ, một mình thấy bơ vơ lạc lõng trước cảnh đời. Lúc đó tương lai của ông mới thật sự mịt mờ !

Người Bạn Đời Như Bản Tình Ca Tuyệt Vời:

May thay sau đó ông gặp bà quả phụ Nguyễn Thị Vân có hai con, vợ của một sĩ quan pháo binh VNCH đã tử trận. Bà ở vậy nuôi con suốt 15 năm và duyên số đã dẫn đưa ông bà gặp nhau để chắp nối duyên nợ vợ chồng. Câu nhạc:“Hãy đến chia nhau nghèo khó, và tương lai quên lo mịt mờ”, phải đổi là: tương lai ta đang mịt mờ, mới thật là đúng với hoàn cảnh thời bấy giờ! Khi đến với cuộc hôn nhân, cả hai đều đã trải qua những năm tháng mất mát, những gian khổ nơi quê nhà và chia sẻ những đắng cay, ngọt bùi trong những năm dài mưu sinh nơi hải ngoại. Vào năm 2019, trong một lần trả lời phỏng vấn khi được hỏi về mối tình đáng nhớ nhất trong đời mình, nhạc sĩ Vũ Thành An trả lời ngay rằng: “Là mối tình mới nhất cũng là người bây giờ tôi đặt hết tất cả tình thương thực sự là vợ tôi.”


Năm 1974 ca khúc Đời Đá Vàng đã lóe ý nhạc trong tâm hồn ông một phần giai điệu và ca từ. Ngày đó ông đang ở đỉnh cao danh vọng nên chưa lĩnh hội được ý nghĩa sâu thẳm về thân phận kiếp người. Nhưng thời gian sau đó khi thế sự thay đổi ông trải qua bao nghiệt ngã đọa đày trong tù, và những năm tháng nổi trôi nơi xứ người bằng hữu cũ nhìn nhau hững hờ vì những muộn phiền trong tù năm xưa.Từ đó ông mới thấm thía được thế nào là đời đá vàng, những lần giông bão mất mát, Hoàn thành ca khúc Đời Đá Vàng năm 1993 như một lời ước vọng xin được bình yên bên người bạn đời để có thể đi hết con đường trần. Có lẽ đây là ca khúc có ca từ mang tính triết lý nhân sinh nhất của ông: “Ta lần mò leo mãi không qua được vách sầu. Ta tìm một tiếng yêu thấy toàn là sầu đau! Ước vọng ngày thơ ấu chưa xin được chút nào. Suốt đời còn ước ao khát vọng còn cấu cào. Ôi thôi, đời ta phung phí trong cơn buồn phiền ! Ta xin tháng ngày rồi bình yên. Ô hay, tại sao ta sống chốn này, quay cuồng mãi hoài có gì vui?! Có một lần mất mát, mới thương người đơn độc. Có oằn mình đớn đau, mới hiểu được tình yêu. Qua dầm dề mưa tuyết, mới vui ngày nắng về. Có một đời khóc than, mới hiểu đời đá vàng.”

Cái tên Đời Đá Vàng được nhạc sĩ Vũ Thành An giải thích: Đá nghĩa là sự buồn tủi, nỗi đau khổ, còn Vàng là niềm hân hoan hạnh phúc. Đời Đá Vàng có nghĩa là cuộc sống của bất kỳ ai cũng luôn tồn tại song song nỗi khổ đau và niềm hạnh phúc. Vì vậy ai cũng nên mở lòng để đón nhận những yêu thương hạnh phúc lúc nào cũng ở cạnh bên mà có thể chúng ta không nhận thấy, từ đó có thể vơi đi được những nỗi khổ đau của một kiếp người. .”

Bài Không Tên Số 7

"Một làn khόi trắng ru đời vào quên lᾶng, nâng sầu thành hσi ấm, xoa dịu tὶnh đau ! Ngày tàn im lắng, yêu người làm tόc trắng, tâm sự rồi đến đắng, như lệ giờ biết nhau !Đêm vỗ về nuôi nấng, đêm trao ngọt ngào hưσng phấn. Buông lσi dὸng tόc mở trên vὺng ngày thάng vật vờ. Thân em rồi hoang phế, lê theo thời gian giông giό. Thôi cũng đành cύi xuống, cho mộng đời thoάt đi…
Một đời đổ cho tὶnh yêu từng đêm dὸng nước mắt.
Sẽ nâng niu đời nhau ư?Đớn đau anh! Sẽ cho nhau đời nhau ư? Xόt xa em ! Dắt đưa nhau mối hận đời người…"

Nhᾳc sῖ Vũ Thành An đã tâm sự về bài hάt như sau:

“Khi tôi viết bài đό, tôi nghῖ rằng là thân xác của chúng ta rồi một ngày sẽ không cὸn nguyên vẹn nữa. Nό sẽ biến đổi… Tôi làm bài đό, khi cὸn rất trẻ, mới hai mưσi mấy tuổi thôi. Tôi đᾶ nhὶn thấy thân phận con người sẽ như vậy. Ai cũng phἀi trἀi qua như thế thôi. Nhưng cό người đόn nhận nό, hay cό người giữ gὶn nό, tùy hoàn cἀnh…”

Kết

"Một lần nào cho tôi gặp lại em, đôi môi đó đêm nay còn nồng. Một lần nào cho tôi gặp lại em, rồi thiên thu sẽ là nhung nhớ! Dòng đời nào đưa em đi về đâu? Sao không thấy qua đây một lần! Một lần nào cho tôi gặp lại em, Những bến bờ xưa cũ đã mờ. .."

Xin trích lời của Vũ Thành An gặp các bạn cũ để thay lời kết:

“…An đã từ giã nó lâu lắm từ 20 năm rồi. Năm 1995 An ra một CD là "Tình Ơi Giã Biệt", chấm dứt một đoạn đời để đi sang một đoạn đời mới, mình dùng cuộc đời của mình để toàn tâm toàn ý phục vụ cho lý tưởng về tôn giáo mà mình tự tìm thấy khi mình mất hết tất cả….”

Paris 20 tháng 12 năm 2023
Đỗ Bình